Người xưa dụng công tham thiền ngộ đạo

21/12/2015 1:02
Có người hỏi Triệu Châu: "Thế nào là đại đạo?" Châu đáp: "Tâm bình thường là đại đạo". Lại nói: "Tôi không phải hỏi cái đạo nầy, cái tôi hỏi là đại đạo". Châu nói: "Đại đạo thông trường an". Vị hỏi câu nầy ngộ ngay lúc đó.

Người xưa ngộ đạo trực tiếp như thế, ngày nay các ông cũng hỏi như vậy, ta cũng đáp như thế các ông có nhanh chóng ngộ đạo được chăng? E rằng các ông làm không được! Nếu nói người xưa là Bồ Tát chuyển thế, La Hán tái lai ấy là gạt người vậy. Cần hiểu được là: sự thực hành của người xưa và các ông không giống nhau, cách xa nhau như trời với đất; người xưa dụng công không kể nóng lạnh, không có đêm ngày, bất luận là nơi nào thì còn nói gì đến đả thất với không đả thất? Người xưa suốt ngày đêm không để một sát na xa rời công phu cho nên hễ có cơ duyên, một lời, nửa câu lúc đó thì ngộ đạo ngay. Các ông không ngộ được là tại sao vậy? Là vì sự sai lầm lớn: "Lúc khát mới đào giếng". Ngày thường không mảy may dụng công, cứ cho là lúc thường không cần dụng công, lúc gia hương đả thất mới là lúc dụng công. Lại cho là vào mùa hạ khí trời nóng bức, ngày thường lại phải thượng điện cúng Phật; ngày thường tuân theo quy củ thì cần thiết hơn, những lúc như thế nầy cũng tùy theo đại chúng mà thôi, lúc gia hương đả thất mới là lúc dụng công. Đại khái các ông bị cái tri kiến sai lầm nầy mà bỏ mất thời gian không ít mà người sai lầm cũng không ít. Các ông nghĩ xem lúc khát nước mới đào giếng, người khát chết rồi giếng chưa đào xong phỏng có ích gì?

Bách công kỹ nghệ trên thế giới đều phải cần đến 3 năm 5 năm mới có thể học xong để đổi lấy một bát cơm; huống chi cái diệu pháp xuất thế gian nầy của chúng ta thì đâu dễ dàng như thế? Các ông là người có tri thức thì đường nhiên cần phải đừng phân biệt mùa đông trời lạnh cũng như mùa hè trời nóng chỉ cần đề lên câu thoại đầu, ở chỗ không minh bạch mà khổ công tham cứu thường xuyên không dứt, dầu cho nó có nóng nực lắm ta có câu thoại đầu thì đương nhiên sẽ mát mẻ tự tại; dù có lạnh đến đâu ta cũng có câu thoại đầu thì cũng chẳng biết đến lạnh rét là gì. Cứ khổ công tham cứu như thế 3 năm 5 năm muốn khai ngộ đương nhiên sẽ được dễ dàng. Nếu muốn lấy việc gia hương đả thất để dụng công, mà ngày thường lại không thì trong một năm kể ra cũng lãng phí hết chín tháng, chỉ còn dụng công có ba tháng. Các ông thử nghĩ xem có đúng không, còn kể là người dụng công sao? 

Ta ngày nay đối với các việc trước đả thất và sau khi giải thất mà đem giải bày ra hết, nếu người có tâm liễu thoát sanh tử sẽ tự nhiên biết theo đấy mà làm, cũng không phải ta đơn độc muốn các ông làm như vậy. Ta vốn đã làm như thế rồi; việc ta đã làm qua, nói để các ông nghe. Ở trong các ông có người tri thức hơn ta thì phải vượt trên ta, hoặc có người không bằng ta thì phải theo học. Trước kia ta ở Chùa Kim Sơn lúc dụng công thì ta chẳng bận tâm vấn đè giao thiệp với người chung quanh, ta chỉ chiếu cố đến câu thoại đầu rõ ràng minh bạch chẳng mảy may gián đoạn. Hễ lầm lỗi với người nào cho dù là chức sự, ta cũng chẳng để ý đến. Khi đi đường chỉ chiếu cố đến công phu, gặp vị tri khách ta cũng không biết chấp tay nhường lối. Đi đường có đụng nhau giữa đường làm vị tri khách phải lùi lại quá xa, ông ta bèn quát lên một tiếng. Bấy giờ ta mới nghĩ: không đúng rồi! Va chạm như thế là xúc phạm đến cảm tình, vậy nên tạm bỏ công phu để xin lỗi đi! Lại nghĩ: Không, không thể được! Vì sao ta xuất gia? Ta đã vì sanh tử mà xuất gia, hôm nay việc sanh tử còn chưa liễu thoát ta không thể bỏ công phu để tính chuyện xin lỗi phải với người được. Nếu muốn làm như vậy thì tốt hơn đừng xuất gia. giữ công phu mới, cần nhất, dù cho bị dọa nạt, bị đánh đập ta cũng vui lòng chấp nhận. Xong! Vị ấy không đánh ta mà ta còn phải yêu cầu đánh mấy cái để thử xem công phu của ta như thế nào? Giả sử đập cho vài cái bạt tai, công phu của ta vẫn còn chiếu cố như thường vậy! Như thế là rất tốt, nếu là đánh một bạt tai, câu thoại đầu theo bạt tai mà đi mất, thế thì con người của ta đây còn được xem là người dụng công nữa không? Cho nên phải giữ lấy lập trường nhất định, dù cho bất cứ người nào nạt ta, mắng ta, đánh ta thì chung qui câu thoại đầu vẫn không được bỏ. Đây là chỗ làm người tham thiền của ta.

Cứ đi như thế đụng nhau một lần, hai lần thì đương nhiên người ta sẽ không vui. Đến kỳ thay đổi chức sự trong chùa mọi người đều ra thiền đường cả, vị tri khách hỏi vị ban thủ: "Ở trong thiền đường có lão người Hồ Bắc, đi hay chưa?" Vị ban thủ nói: "chưa đi". Vị tri khách lắc đầu nói: "Cái lão Hồ Bắc nầy xấu lắm, không biết quan chức gì xuất gia mà lúc đi đường cứ kênh kênh kiệu kiệu không xô người nầy cũng đẩy người nọ. Thực là con chim chín đầu trên trời, lão Hồ Bắc dưới đất! Thằng nầy còn không đi thực là đáng ghét". Những câu nói nầy chính ta đã nghe được, nói chung thì việc sanh tử của ta chưa liễu thoát, mấy việc nhỏ nhặt nầy thì chấp nhứt ông ta làm gì? Lại có một hôm sau khi điểm tâm đi ngoài xong trở lại thiền đường, đang đi giữa đường có vị sư nọ chặn ta lại hỏi: "Bồ Tát ở trên chính điện là nam hay nữ?" Bị hỏi như thế ta hoang mang không trả lời được, ta nói: "không biết" ông ta lại hỏi: "Vị Bồ Tát chính giữa có râu không?" Ta lại không mở miệng được, chỉ trả lời là:"không biết".

Trên thực tế, ta ở Chùa Kim Sơn đã hai ba năm, khi thượng điện không hề ngẩng đầu lên nhìn thì đâu biết được là Bồ Tát nam hay nữ, có râu hay không râu. Các ông ngày nay còn có người nào như thế không? Ta có được chỗ hành như thế mà ngày nay vẫn còn là người nghiệp chướng. Còn chỗ hành của các ông đâu nếu không được khai ngộ thì còn được liễu thoát sanh tử chăng? Các người thử phát tâm tự hỏi mình xem! Hãy tham thiền đi!

 

Trích Thiền Thất Khai Thị Lục - Lai Quả Thiền Sư

Các tin tức khác

Back to top