Hoa trái của người xuất gia

21/09/2013 1:57
Một ông vua bị bệnh tâm thần, ông tên A Xà Thế (Ajātaśatru), là con của vua Tần Bà Sa La (Bimbisāra). Ông bị bệnh tâm thần tại vì ông đã giết cha để lên làm vua và bây giờ ông hối hận. Hồi đó Bụt đang còn sống, vua Bimbisāra rất thân với Bụt.

Một hôm vua Bimbisara đang ngồi trên xe loan thì thấy một thầy ôm bình bát đi rất đẹp, rất thảnh thơi trên đường phố thành Vương Xá. Vua rất ấn tượng nhưng không xuống xe để hỏi thăm, tại vì vua thấy làm như vậy thì quá đường đột. Vua ra lệnh cho một người hầu cận đi theo ông thầy đó để biết chỗ ở của ông. Ông thầy đó là Siddharta khi chưa thành đạo.

Siddharta là một vị hoàng tử cho nên cách đi, đứng đã đẹp rồi. Nhưng khi thành một người xuất gia thì cách đi, đứng lại càng đẹp hơn nhờ có chánh niệm và chánh định. Điều này làm cho vua rất ấn tượng. Sau khi biết được chỗ ở của Siddharta trong thành phố, một hôm vua đem vài người tùy tùng theo đi thăm Siddharta. Lúc đó Siddharta vừa đi khất thực về, đang ở trên một ngọn đồi ở ngoại ô thành phố. Xa giá tới chân đồi, vua bảo tùy tùng ngồi đợi, vua đi bộ lên đồi và hai người đã gặp nhau lần đầu. Vua rất mộ đạo, muốn có một vị thầy giỏi làm cố vấn cho vua để vương quốc có thêm giá trị. Các nhà chính trị thường muốn trong nước có một nhà lãnh đạo tôn giáo có uy tín để vương quốc của mình có được một chiều sâu tâm linh. Vua Bimbisāra cũng vậy, vua đã thỉnh Siddharta về làm quốc sư dạy cho vua và làm thầy của cả nước. Vua mời rất trân trọng nhưng Siddharta đã từ chối:

  • Tôi tu chưa chứng đạo, tôi không thể nào làm thầy của quí vị.

Hai người nói chuyện với nhau và vua Bimbisāra tìm ra gốc gác của Siddharta. Thì ra ông thầy tu này cũng là con của một ông vua và cũng sẽ trở thành vua. Nhưng ông ta đã bỏ ngôi vua để làm một ông thầy tu. Vua có nói hớ một câu:

  • Nếu Ngài muốn, tôi sẽ cắt chia cho Ngài một nửa vương quốc này.

Siddharta nghĩ: “Mình đã bỏ một vương quốc rồi mà bây giờ còn nhận một nửa vương quốc để làm gì?“ Ngay chiều hôm đó, Siddharta rời bỏ thành phố vì sợ bị quấy rầy lần thứ hai. Nhưng trong buổi nói chuyện hôm đó Siddharta có hứa với vua Bimbisāra một điều: “Khi thành đạo tôi sẽ trở về giúp vua“. Vì vậy sau khi thành đạo thì Siddharta trở về nhưng không trở về một mình mà trở về với một tăng thân trên 1000 thầy. Lúc đó, Siddharta đã độ được cho trên 1000 người xuất gia, phần lớn là những người theo đạo thờ thần lửa cư trú ở làng Uruveda. Vua nghe tin Đức Thế Tôn cư trú với một ngàn vị khất sĩ trong Rừng Kè (Palm Grove). Vua dẫn theo hoàng gia cùng các viên chức trong triều đình thân hành tới thăm Bụt. Đây là lần đầu hai người gặp lại nhau sau khi Bụt thành đạo. Lúc đó Bụt còn rất trẻ, chưa đến 40 tuổi.

Khi Bụt về thành Vương Xá thì người trẻ phát tâm xuất gia rất đông. Lúc đó chưa có giáo đoàn Tỳ kheo ni. Vua Bimbisāra đã trở thành người yểm trợ Bụt hết lòng, vua vừa là bạn vừa là đệ tử của Bụt.

Nhưng vua Bimbisāra có một hoàng tử không được dễ thương, đó là thái tử A Xà Thế (Ajātaśatru). Thái tử rất ham làm vua và được một phe đảng yểm trợ. Có một lần A Xà Thế giấu gươm trong áo, đi vào cung định giết cha mình nhưng bị quân hầu bắt được. Quần thần đòi xử tử thái tử, nhưng vì vua thương con quá nên tha đi. Nhất là vì vua là đệ tử của Bụt nên không nỡ xử tội thái tử.

Nhưng vì ý đồ muốn làm vua lớn quá nên Ajātaśatru vẫn chứng nào tật đó, tìm đủ cách để làm vua sớm ngày nào hay ngày đó. Nhà chính trị thường muốn có sự yểm trợ của nhà tôn giáo. Ajātaśatru cũng muốn có được sự yểm trợ của tăng đoàn của Bụt nhưng Bụt không đồng ý yểm trợ nên chính quyền đã tìm đủ cách để chia rẽ giáo đoàn của Bụt. Vì vậy trong giáo đoàn của Bụt có sự chia rẽ, trên 500 thầy đã đi theo Devadatta để lập một giáo đoàn mới.

Cuối cùng Ajātaśatru đã đảo chánh, bắt giam phụ hoàng, định để cho chết đói. Hoàng hậu Vaidehi năn nỉ quá nên Ajātaśatru cho phép bà vào thăm vua. Hoàng hậu giấu vài nắm cơm trong tóc đem vào cho vua ăn. Quân lính bắt được và tịch thu nên vua sắp chết đói trong tù. Hoàng hậu đã nghĩ ra nhiều cách như sau khi tắm xong bà thoa một lớp cháo hồ lên thân thể rồi mới mặc áo vào. Quân lính khám không thấy thực phẩm nên cho vào. Vào gặp được vua bà cởi áo và lột lớp hồ đó ra cho vua ăn. Thái tử thấy vua chưa chết mới khám phá ra thái hậu đã đem thức ăn vào cho vua nên từ đó cấm không cho thái hậu vào thăm vua nữa. Cuối cùng vua Bimbisāra chết và thái tử làm lễ đăng quang. Giáo hội nhà nước cư trú trên núi Tượng Đầu yểm trợ thái tử hết lòng. Bụt và giáo đoàn của Ngài không đến dự lễ đăng quang tại vì nếu dự lễ đăng quang là yểm trợ cho một chính quyền bất nhân, bất hiếu, vô đạo, không đúng với tiêu chuẩn đạo đức của đạo Bụt. Vua Ajātaśatru nghĩ rằng Bụt là bạn của cha mình ngày xưa nên chắc là Bụt thù ghét mình lắm. Vua không biết Bụt là một người rất nhân từ, không đem lòng ghét bỏ ai cả. Bụt chỉ thương, thương cả những người có tội lỗi. Một hôm con của vua Ajātaśatru đòi đem theo con chó vào ăn cơm. Theo luật của Hoàng gia thì không được đem theo chó khi ăn cơm, nhưng vua cưng con quá nên cho con đem chó vào. Vua nói với thái hậu Vaidehi:

  • Con không cho nó đem chó vào nhưng nó cứ đòi quá nên con để nó đem chó vào, vậy con xin lỗi mẹ.

Thái hậu nói:

  • Con thương con của con nên con cho nó đem con chó theo, đó là chuyện thường, mẹ có thể chấp nhận được. Con có biết là ngày xưa cha của con cũng thương con như vậy không? Để mẹ kể cho con nghe cha con thương con như thế nào.

Rồi bà kể cho vua nghe vài câu chuyện ngày xưa:

  • Có một lần ngón tay trỏ của con bị sưng lên và nhức cho đến đỗi cả đêm con khóc và không ngủ được. Cha con phải ngậm ngón tay đó suốt đêm để cho nó ấm và mủ bưng ra để cho con bớt đau. Cha con đã hút mủ trong ngón tay ra và vì nếu nhả ngón tay của con để nhổ mủ ra thì con sẽ bị đau nên cha con đã nuốt mủ vào luôn trong bao tử của mình.

Nghe những câu chuyện như vậy, vua hối hận vô cùng. Từ đó về sau, vua bị bệnh tâm thần không ai chữa được. Các vị đạo sĩ các giáo phái khác được mời tới cũng không chữa trị được tâm bệnh của vua. Lúc đó Bụt đang cư trú dưới chân núi Thứu trong vườn xoài của bác sĩ Jivaka. Bác sĩ Jivaka đã có lần nói với vua Ajātaśatru:

  • Nếu muốn bớt bệnh thì đại vương phải đi thăm Bụt. Tôi nghĩ chỉ có Đức Thế Tôn mới có thể giúp cho đại vương hết bệnh.

Vua Ajātaśatru nói:

  • Không được đâu. Chắc là Bụt Gautami rất giận tôi tại vì tôi đã giết bạn của Ngài.

Bác sĩ Jivaka nói:

  • Đại vương đừng nói như vậy. Bụt là một người nhân từ, lòng từ bi của Bụt rất lớn. Bụt không hề giận ai, Bụt không có kẻ thù. Đó là một con người tuyệt vời có lòng từ bi rất lớn và có thể ôm lấy tất cả mọi người. Nếu đại vương muốn, tôi sẽ tổ chức một cuộc viếng thăm.

Chiều hôm đó trời trong và mát nên vua chịu đi với bác sĩ Jivaka tới thăm Bụt dưới chân núi Thứu. Vua đi với một đoàn tùy tùng khá đông, tới gần núi Thứu vua hỏi bác sĩ Jivaka, bác sĩ Jivaka cũng đã từng chữa bệnh cho Bụt và chăm sóc sức khỏe cho tăng đoàn:

  • Bụt ở một mình hay ở với nhiều người?

Bác sĩ Jivaka nói:

  • Đức Thế Tôn luôn luôn ở chung với các thầy. Hiện bây giờ có khoảng 1000 thầy đang ở với Bụt. Khi tới đại vương sẽ thấy các thầy ngồi chung quanh Bụt rất đông.

Nhưng tới chân núi rồi mà vua thấy đêm thanh cảnh vắng. Vua sợ nghĩ: “Sao có 1000 người mà lại không có một tiếng ồn nào hay là nó lập mưu đặt bẫy để giết mình“. Vua run lên, Jivaka nói:

  • Bệ hạ đừng sợ, sự im lặng này là sự im lặng hùng tráng của người tu.

Xuống voi, vua thấy có ánh lửa thấp thoáng trong vườn xoài. Vua đi theo bác sĩ Jivaka vào tịnh xá và thấy một cảnh tượng rất trang nghiêm: cả ngàn thầy ngồi rất im lặng và Bụt ngồi phía trước. Jivaka vào báo tin có hoàng đế tới thăm và Bụt ra đón. Hôm đó Bụt nói một kinh cho vua Ajātaśatru, kinh do câu hỏi của vua đặt ra. Theo nguyên tắc khi bệnh nhân tới bác sĩ tâm lý trị liệu thì phải nói bệnh của mình ra, nhưng vua lại hỏi câu:

  • Thưa Thế Tôn, tại sao người trẻ đi tu đông như vậy, có ích lợi gì mà họ đi tu đông như vậy?

Một câu hỏi rất đơn sơ bởi vì vua ngạc nhiên thấy người trẻ đi theo Bụt rất đông mà người nào cũng tươi mát, hạnh phúc, khoan thai. Nghe câu hỏi đó, Bụt nói một kinh gọi là kinh Sa Môn Quả tức hoa trái của sự thực tập của người xuất gia:

Ví dụ như có một người nô lệ đang làm công cho một nhà giàu. Một hôm người đó gặp một vị thầy đang đi khất thực. Thấy vị này thảnh thơi, an lạc quá nên người nô lệ so sánh với mình: “Tại sao có một người thảnh thơi, an lạc như vậy còn mình thì cực khổ và lệ thuộc như thế này. Mình không có phẩm chất của một con người, mình chỉ làm nô lệ cho người ta, bị người ta đánh mắng, sai làm việc”. Người nô lệ nói chuyện với thầy đó thì thầy nói: ”Muốn thoát khỏi thân phận nô lệ thì anh chỉ cần đi xuất gia thôi. Nếu anh muốn thì tôi sẽ giới thiệu để anh được đi xuất gia”.

Mấy ngày sau người nô lệ được xuất gia, được một bình bát và ba cái áo và thoát ra khỏi thân phận nô lệ ngay lúc đó. Từ một nô lệ mình trở thành một vị khất sĩ, và không ai có quyền chủi mắng, đánh đập, sai bảo một vị khất sĩ. Chỉ trong mấy ngày, người đó thoát ra khỏi tình trạng kỳ thị giai cấp, sự phân biệt chủ tớ, giàu nghèo hay sang hèn và trở thành một người có nhân phẩm như mọi người khác. Đó là hoa trái đầu tiên của người xuất gia.

Vua nói:

  • Hay quá! Hay quá! Xin Đức Thế Tôn nói tiếp nữa đi!

Kinh này là kinh Sa Môn Quả tức kinh Hoa trái của người xuất gia, mà hoa trái đầu tiên là thoát ra khỏi thân phận tù đày và sự kỳ thị.

Bụt nói tiếp:

Là người xuất gia, việc đầu tiên là ta thọ trì giới luật như giới không nói dối, không trộm cắp, không tà dâm. Ta thọ trì 250 giới, mỗi giới đều cho ta tự do. Khi ta giữ giới không uống rượu, không sử dụng các chất ma túy thì ta không bao giờ làm nô lệ cho rượu và các chất ma túy. Những người nghiện rượu và ma túy mất tự do của họ. Ta giữ giới thứ năm, không uống rượu, không sử dụng các chất ma túy thì ta có một khoảng tự do. Ta giữ giới thứ hai, không ăn trộm hay ăn cướp thì không ai có quyền bắt ta bỏ tù. Mỗi giới đem lại cho ta tự do, người xuất sĩ vì giữ 250 giới nên có 250 thứ tự do. Hoa trái thứ hai của người xuất gia là có rất nhiều tự do.

Vua nói:

  • Hay quá! Hay quá! Trẫm nghe là hiểu liền. Xin Đức Thế  Tôn hãy dạy tiếp.

Bụt nói:

Là một người xuất gia thì ta không có tài sản, không có tiền bạc, châu báu nên ta không cần canh gác, ta không sợ mất gì cả. Nếu có tiền bạc, châu báu thì kẻ cướp có thể xông vào giết ta để chiếm đoạt. Ta không có gì ngoài một bình bát và ba y nên ta ở trong trạng thái rất an ninh. Dù là một vị thủ hiến, một vị toàn quyền hay một vị bộ trưởng thì ta cũng không có được an ninh như vậy. Người xuất gia buông bỏ tất cả tài sản nên không có gì để sợ mất. Người xuất gia có an ninh lớn và an ninh đó là hoa trái thứ ba của sự thực tập của người xuất gia.

Vua nói:

  • Hay quá! Hay quá! Đức Thế Tôn nói dễ hiểu quá. Trẫm hiểu liền đây là hoa trái của sự thực tập của người xuất gia.

Chúng ta chỉ có một bình bát. Ta không có tài sản, không có trương mục trong ngân hàng nên ta không sợ bị mất mát, bị đánh đập, bị ganh ghét.

Bụt nói:

Này đại vương, đó chỉ mới là ba hoa trái đầu, còn rất nhiều hoa trái khác nữa. Người xuất gia không chạy theo danh vọng, quyền hành, sắc dục, không theo đuổi sự nghiệp ngoài đời nên có rất nhiều thì giờ để ngồi thiền, đi thiền và tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống chung quanh mình, thấy được vẻ đẹp của thiên nhiên, tiếp xúc được với những gì tươi mát, lành mạnh để nuôi dưỡng và trị liệu mình. Có được nhiều thì giờ là hoa trái thứ tư của sự thực tập của người xuất gia. Ở ngoài đời người ta rất bận, không có thì giờ để thở, để ăn cơm.

Chưa hết, đại vương, người xuất gia học hỏi và thực tập niệm, định và tuệ, biết thở, biết đi trong chánh niệm. Vì vậy cho nên người xuất gia biết cách chế tác được những giây phút vui mừng và hạnh phúc.

Nếu có chánh niệm thì ta có thể tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống và chế tác được niềm vui. Ta thấy mình có rất nhiều điều kiện hạnh phúc. Chỉ cần có mặt trong giây phút hiện tại là ta có thể tiếp xúc được với những điều kiện hạnh phúc ta đang có, như là: hai mắt của ta đang sáng, hai tai của ta đang nghe rất rõ, hai chân của ta còn khỏe. Với sự thực tập niệm và định, người xuất gia có thể chế tác được hỷ và lạc lúc nào ta muốn. Đó là hoa trái thứ năm của người xuất gia.

Hơn nữa vì có niệm, định, tuệ nên người xuất gia biết cách chăm sóc và quản lý nỗi khổ niềm đau của mình. Người xuất gia biết nhận diện, ôm ấp và xử lý nỗi khổ niềm đau của mình để chuyển hóa chúng và được nhẹ nhàng hơn trong thân và tâm. Đó là một hoa trái khác của người xuất gia.

Vua nói:

  • Hay quá! Hay quá! Những điều Đức Thế Tôn dạy, trẫm hiểu rất dễ dàng. Ai ngờ rằng đi tu mà có được nhiều hạnh phúc, nhiều lợi lạc, nhiều hoa trái như vậy. Những chuyện đơn sơ như vậy mà lâu nay trẫm lại không biết.

Bụt nói:

Chưa hết đâu bệ hạ, còn nữa. Người xuất gia là người có cơ hội học về quán vô thường, vô ngã, nhận diện những phiền não của mình như đam mê, giận dữ, tuyệt vọng, ganh tị, những sợi dây ràng buộc tâm mình, không cho tâm mình thảnh thơi, an lạc. Khi sử dụng quán chiếu vô thường, vô ngã thì mình thoát ra khỏi những mặc cảm hơn người, thua người hay bằng người. Mình không còn mong muốn, ganh ghét, hận thù. Mình thấy rất thoải mái, an lạc. Mình có rất nhiều giải thoát, rất nhiều tự do.

Vua nói:

  • Hay quá! Hay quá! Vậy mà trẫm không biết, trẫm tưởng những người đi tu là những người làm biếng không muốn lo chuyện đời.

Bụt nói:

Chưa hết đâu đại vương! Người xuất gia còn học được phương pháp quán chiếu tự tánh của các pháp và thấy được các pháp không sinh không diệt, thoát ra ngoài ý niệm sinh diệt và không còn sợ hãi sống và chết nữa, thản nhiên trước cái còn cái mất, cái sinh cái diệt. Khi người xuất gia đạt tới quả vị đó, thấy được cái không sinh không diệt, không có không không, không còn không mất thì người xuất gia có tự do rất lớn. Mỗi giây phút của đời sống người xuất gia là mỗi giây phút không sợ hãi, và hạnh phúc đó người thường không thể biết được. Chỉ khi nào đạt tới cái thấy không sinh không diệt, không còn không mất, không tới không đi thì lúc đó mới có sự tự do lớn.

Vua nói:

  • Bạch Đức Thế Tôn, con chưa chứng nghiệm được điều này, nhưng con biết rằng nó có thể có được.

Bụt nói:

Chưa hết đâu đại vương. Người xuất gia, tuy không làm chính trị, nhưng sự có mặt của người xuất gia giúp cho nhiều người bớt khổ. Sự có mặt thảnh thơi, những bước chân, những nụ cười của người xuất gia làm cho xã hội thấy rõ rằng có một nếp sống nhẹ nhàng, hạnh phúc. Nhờ chuyển hóa được những phiền não, khổ đau của mình trở thành an lạc, hạnh phúc nên người xuất gia có thể giúp được nhiều người trong xã hội có thể làm được như mình. Tuy không làm chính trị, kinh tế nhưng người xuất gia rất có ích lợi cho cuộc đời.

Điều này chắc đại vương cũng thấy, nếu xã hội chúng ta không có đạo đức thì sẽ có bạo động, hận thù, khổ đau rất nhiều. Sự có mặt của đạo đức là một yếu tố rất quan trọng cho xã hội. Trong xã hội, mỗi người phải có một chiều hướng tâm linh đạo đức thì mới vượt thắng được nỗi khổ niềm đau. Người xuất gia, tuy không làm công việc chính trị, xã hội, kinh tế nhưng sự có mặt đạo đức của người xuất gia có thể giúp được cho rất nhiều người bớt khổ.

Nghe Bụt nói, vua rất cảm kích. Tuy không tham vấn Bụt về bệnh tâm thần của mình nhưng vua biết là Bụt thương mình, Bụt không thù, không giận mình và vua cảm thấy rất nhẹ nhàng. Vua lạy xuống nhận làm đệ tử của Bụt và tự nhiên những bức xúc, những khổ đau tâm thần của vua thuyên giảm rất nhiều. Vua được trị liệu ngay trong khi nghe Bụt thuyết pháp. Khi chào Bụt đi về trong người của vua rất nhẹ, vua biết y sĩ Jivaka đã giúp mình rất nhiều. Nếu không có y sĩ Jivaka thì vua không có cơ hội được trị lành bệnh.

Tất cả câu chuyện được ghi vào một kinh trong Trường Bộ gọi là kinh Sa Môn Quả tức kinh nói về hoa trái của sự thực tập của người xuất gia.

 

Sư ông Làng Mai

Các tin tức khác

Back to top