Tiệm tu

25/08/2014 6:24
Trước khi trở về phương Tây, Tổ Bồ-đề-đạt-ma hỏi chỗ sở đắc của bốn đệ tử hàng đầu. Tổ lần lượt nói người được phần da, người được phần thịt, người được phần xương, và Huệ Khả sau cùng được phần tủy. Như thế, sự chứng ngộ Pháp thân có cấp độ cạn sâu. Dĩ nhiên người nào còn cạn thì phải tiếp tục Nhập, tức là tiếp tục tiệm tu.

Lục Tổ được Ngũ Tổ giảng cho kinh Kim Cương, đến câu “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” thì ngay lời nói đại ngộ, “nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh…” Sau đó, từ giã Ngũ Tổ. Khi lên thuyền cầm chèo, ngài nói, “Mê thì thầy độ, ngộ rồi thì tự độ. Nay đã được ngộ, chỉ nên tự ngộ tự độ”.

Tự độ là lấy tự tánh, tức là “vị thầy bên trong,” mà tự độ. Đây là tiệm tu. Lục Tổ cũng nói “đốn ngộ đốn tu” (phẩm Đốn Tiệm) chứ không nói đốn ngộ thành Phật.

Khi Huệ Minh đại ngộ sau lời nói của Lục Tổ, Tổ bèn nói, “Ông được như vậy thì ta với ông cùng một thầy Hoàng Mai, hãy khéo tự hộ trì”.

Khi thấy một phần Pháp thân hay tự tánh rồi thì có thể “tự tu tự hành, tự ngộ tự độ”. Đây là tiệm tu. Dĩ nhiên chúng ta không nên hiểu chữ tu này một cách thô sơ, tầm thường, vì một người đã đạt đến Pháp thân, đã đạt đến Căn bản trí, đã đạt đến Trí huệ Bát-nhã thì “tu mà không tu, chứng mà không chứng”.

“Khéo tự hộ trì” là công phu tiệm tu sau khi ngộ. Cùng nghĩa với những từ này còn có từ “bảo nhậm”, “trưởng dưỡng thánh thai”, “thấy tánh khởi tu”…

Đốn ngộ là một niệm tương ưng với Pháp thân. Tiệm tu là niệm niệm tương ưng với Pháp thân, liên tục sống trong thực tại Pháp thân. Lục tổ dùng chữ niệm niệm này nhiều trong kinh Pháp Bảo Đàn:

“Niệm niệm mở chỗ thấy biết của Phật” (phẩm Cơ Duyên); “Ở trong niệm niệm tự thấy bản tánh thanh tịnh, tự tu tự hành, tự thành Phật đạo” (phẩm Diệu Hạnh); “niệm niệm thấy tánh” (phẩm Quyết Nghi); “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học là phải thấy tánh mình, thường hành chánh pháp” (phẩm Sám Hối); “Thấy tánh là công, bình đẳng là đức. Niệm niệm không ngăn trệ, thường thấy bản tánh, diệu dụng chân thật, gọi là công đức”; “Niệm niệm không gián đoạn là công, tâm làm bằng thẳng là đức. Tự tu tánh là công, tự tu thân là đức” (phẩm Quyết Nghi).

Ngũ Tổ cũng nói về niệm niệm này: “Vô thượng bồ-đề cần ở ngay lời nói mà biết bản tâm mình, thấy bản tánh mình, vốn chẳng sinh chẳng diệt. Ở trong mọi lúc mọi thời, niệm niệm tự thấy, muôn pháp không trệ ngại. Một cái chân, tất cả đều chân, muôn cảnh tự như như” (phẩm Tự Thuật).

Các Thiền sư thường có một thời gian dài sau khi ngộ để bảo nhậm, hộ trì. Lục Tổ ở mười lăm năm trong rừng với những thợ săn. Quốc sư Huệ Trung tu ở núi hơn bốn mươi năm. Thiền sư Quy Sơn ở núi một mình hơn bảy năm. Quốc sư Đại Đăng của Nhật Bản được thầy mình dạy, “Trước khi ấn chứng chính thức công khai, ngươi phải tiếp tục tu hành hai mươi năm”. Rồi Đại Đăng sống như người ăn xin gần cầu Ngũ Điều hai mươi năm, sau đó được thầy giới thiệu với vua để làm Quốc sư. Các Thiền sư sau khi ngộ thường đi đến các Thiền sư lỗi lạc để tham vấn, thỉnh ích, gọi là hành cước, du phương.

Tại sao lại phải tu tiếp sau khi ngộ? Bởi vì ngộ là chứng đạt một phần Pháp thân, cần phải tu tiếp cho đến khi giải thoát, không còn tu nữa (Vô công dụng đạo ở địa thứ tám của Đại thừa, địa vị Vô học của Thanh văn thừa). Ngộ rồi vẫn còn một phần phiền não chướng và sở tri chướng, vẫn còn bốn tướng ngã, nhân, chúng sanh, thọ mạng ở mức vi tế phải tiêu trừ cho hết. Trong kinh Lăng Nghiêm, khi ngài A-nan đại ngộ thấy Pháp thân (Tiêu điên đảo tưởng trong ức kiếp, chẳng trải tăng-kỳ được Pháp thân), vẫn xin Đức Phật xét trừ cho mê lầm vi tế (Đại hùng, Đại lực, Đại từ bi; mong xét trừ cho lầm vi tế).

Nói đến những mức độ chứng ngộ, chúng ta thấy Thiền sư Lâm Tế có Tứ liệu giản, tông Tào Động có Ngũ vị quân thần, và Thiền tông về sau hay dùng Mười Bức Tranh Chăn Trâu. Tông Lâm Tế về sau có đặt ra Ba quan cũng vì việc tu sau ngộ. Ngộ là vượt qua Tổ sư quan hay Sanh tử quan, thực sự bước vào cõi đất không có sanh tử nhưng vẫn còn dây dưa với phiền não sanh tử, nên còn phải vượt qua hai quan nữa là Trùng quan và Lao quan mới hoàn toàn giải thoát.

Nếu so với một pháp môn Đốn giáo của Ấn-Tạng là Đại Toàn Thiện (Dzogchen), thì Ngộ là cái Thấy, còn phải Thiền định và Hạnh mới đắc Quả. Với Đại thừa cũng vậy, Ngộ là Kiến đạo vị (địa vị thấy đạo, thấy Pháp thân), từ nền tảng Pháp thân này còn phải thực hành (Tu tập vị) cho đến lúc không còn gì để tu nữa.

Thiền sư Quy Sơn, đời thứ tư sau Lục Tổ, nói: “Nếu thật ngộ được bản tâm thì người ấy tự biết, tu với chẳng tu chỉ là lời nói hai đầu. Còn đối với người mới được một niệm đốn ngộ thì vẫn còn tập khí nhiều đời từ vô thủy chưa thể chóng sạch, cần phải dần dần tịnh trừ dòng nghiệp thức, tức là tu vậy. Từ nghe nhập được chân lý, nghe lý thâm diệu, tâm tự tròn sáng, không rơi vào chỗ nghi lầm, tự biết tạo sinh kế. Nói tóm lại ‘chỗ đất chân lý không thọ nhận một mảy bụi, nhưng trong cửa muôn hạnh chẳng bỏ một pháp’. Nếu được như vậy tức là một đao xông thẳng vào, tình phàm thánh sạch, bày lộ chân thường, lý sự không hai, tức Phật như như”.

Thiền sư Mã Tổ nói, “Tánh ấy vốn sẵn vậy, không vì tu đạo, ngồi thiền mà có. Không tu không ngồi đó là Thiền thanh tịnh của Như Lai. Nay đã thấy rõ lý ấy, chỉ cần chân chánh không tạo nghiệp, tùy duyên qua ngày, một y một nạp, đứng ngồi theo đó, giới hạnh huân thêm, gom chứa tịnh nghiệp. Được như vậy thì lo gì chẳng thông?”.

Thiền sư Đại An, sau khi được Thiền sư Bá Trượng chỉ thẳng cho bản tâm bằng câu nói, “Thật như người cỡi trâu đi tìm trâu”, về sau dạy chúng: “Đại An này ở Quy Sơn ba mươi năm, ăn cơm Quy Sơn, đại tiện ở Quy Sơn, mà không học Thiền Quy Sơn, chỉ coi chừng con trâu. Nếu nó lạc đường hay đi vào trong cỏ liền kéo nó lại. Nếu nó ăn lúa mạ của người liền đánh roi điều phục. Đến bây giờ thành con trâu trắng, suốt ngày sờ sờ trước mặt, có đuổi cũng chẳng đi”.

Thiền sư Lâm Tế lời lẽ mạnh bạo trực tiếp hàng đầu, cũng nói về tiệm tu trừ nghiệp:

“Tùy duyên tiêu nghiệp cũ,

Hồn nhiên mặc áo xiêm”.

Thiền sư Hám Sơn (1546-1623) nói: “Nếu hốt nhiên các tư tưởng vọng động dừng lại, ta thấy rõ tự tâm mình xưa nay thanh tịnh, viên mãn rực rỡ bao la và không có các tướng đối tượng. Đó gọi là ngộ. Không có gì ở ngoài tâm, không có gì để dụng công, không có gì để ngộ… Tuy nhiên các tham dục chấp ngã đã tích tập từ lâu bắt rễ trong chúng ta, rất khó mà dứt bặt. Các vị phải nhận thức rằng không dễ gì nhổ bật lập tức các gốc rễ của sanh tử luân hồi đã ăn sâu trong các vị từ vô thủy.

“Đạt được chân ngộ, người ta hòa tâm mình với tất cả hoàn cảnh của đời sống, rửa tất cả nghiệp và tham dục. Ngay cả những hoài nghi và biến dịch cũng hòa với chân tâm…

“Cái gọi là đốn ngộ tiệm tu là chỉ người đã ngộ một cách triệt để nhưng vẫn chưa rửa sạch ngay một lần hết cả những vọng niệm tập khí trong tâm. Người ấy phải hòa cái ngộ với tất cả những gì gặp trong đời sống hàng ngày, hòa hợp cái ngộ với các biến cố bên ngoài. Hễ cứ một phần cảnh tướng bên ngoài hòa hợp với ngộ thì một phần Pháp thân được khai mở, và cứ một phần vọng tưởng tiêu tan thì một phần trí huệ bổn nguyên lộ bày”.

Lục Tổ Huệ Năng có nhiều đệ tử đốn ngộ, Cảnh Đức Truyền Đăng Lục nói là có bốn mươi ba vị, nhưng chỉ ghi lại tiểu sử, công hạnh của mười chín vị. Mười chín vị này là những vị thầy nổi tiếng, là những hàng long tượng của Phật giáo.

Thiền sư Mã Tổ có tám mươi bốn đệ tử nhập thất, tức là vào được thất của Tổ, đã ngộ, đã vượt qua Tổ sư quan, nhưng chỉ có mười mấy người được ghi chép lại như những vị thầy trụ trì và xiển dương Thiền tông.

Như vậy, chúng ta có thể suy đoán rằng một vị thầy Thiền tông, một Thiền sư nối dòng truyền thừa là một vị chứng đắc rất sâu Pháp thân. Vị ấy không còn tu nữa, hoàn toàn giải thoát, tức là từ địa thứ tám trở lên. Có lẽ các vị tổ của các tông phái Đại thừa khác cũng như vậy.

Theo Văn Hóa Phật Giáo số 206

Các tin tức khác

Back to top