Chàng bèn đến dinh quan Bộ lang là họ Vương, xin ở hầu sai khiến được nửa năm, thì ông thấy chàng mới 17 tuổi mà thật thà, siêng năng và cung kinh nên đem lòng thương, không cho làm việc nặng, để ở trên nhà khách lau dọn bàn ghế, và sai khiến trong khi có khách, hoặc trà nước, hoặc cơm rượu mà thôi.
Một ngày kia Phu nhân bịnh nặng, thuốc thang đã nhiều mà không thấy công hiệu, nên trong khi quan Bộ lang lo buồn, thình lình có khách là ông Viên thượng Bửu đến thăm. Nguyên ông này tên là Trung Triệt, làm chức Thượng bửu tư thừa là con của ông Viên Liễu Trang; cha con tướng thuật như thần, tại xứ Kinh kỳ ai cũng kính phục.
Khi chủ khách ngồi yên, ông Thượng Bửu ngó quan Bộ lang và nói rằng:
- Ngài sao mà khí trệ, chắc là gia quyến có bịnh không yên; nhưng cái tướng này không phải ở trong sanh ra, thật ở ngoài mà đến, hoặc có chỗ tránh được cũng chưa biết chừng!.
Quan Bộ lang vẫn biết ông Thượng bửu là thần tướng, mà nay xem tướng mình lại đoán trúng việc nữa, nên ông muốn hỏi cho cặn kẽ, nhưng chưa kịp hỏi, liền có Trịnh Hưng Nhi bưng khay trà lên cho hai ông uống, rồi trở xuống nhà sau.
Ông Thượng Bửu thấy Trịnh Hưng Nhi, bèn nói nhỏ với quan Bộ lang rằng:
- Trò nhỏ pha trà đó là người chi trong nhà?
- Nó là đứa ở của tôi, mà ngài hỏi làm chi?
- Thân quyến của ngài hay sanh bịnh hoạn, là bởi tại trò đó có cái tướng phòng chủ; nếu nó ở lâu với ngài thì sợ trong nhà phải hao người, vậy ngài cũng liệu mà cho nó ra khỏi nhà, thì tự nhiên bình an.
- Hèn chi từ khi nó đến ở với tôi tới nay ước được năm sáu tháng, mà trong nhà tôi đau ốm luôn luôn, không ngày nào toàn mạnh; nhưng nó tánh nết dễ thương, tôi đâu nỡ đuổi đi!
Khi ông Thượng Bửu ra về, quan Bộ lang đem lời ấy thuật lại, thì phu nhân nghe liền bảo ông mau cho nó đi. Ông sợ trái ý vợ mà thêm bịnh, bất đắc dĩ ông phải kêu Hưng Nhi vào cho mười quan tiền, rồi bảo đi nơi khác mà ở.
Hưng Nhi khóc lóc mà thưa rằng:
- Tôi không có khi nào dám trái ý chủ mà nỡ nào lại đuổi tôi?
Ông Bộ lang bèn đem việc ông Thượng Bửu xem tướng mà thuật lại, thì chàng biết thần tướng đã nói như vậy, không thể nào ở được, liền lạy ông bà rồi ra đi.
Quả nhiên khi chàng ra khỏi nhà, thì phu nhân bắt đầu mạnh dần, rồi từ ấy về sau, trong gia đình không ai bịnh hoạn nữa.
Kẻ trong nhà của quan Bộ lang thấy ông Thượng Bửu nói tướng của Hưng Như như vậy, thì đều tụm năm tụm bảy, luận nọ bàn kia một truyền mười, mười truyền trăm, trăm truyền ngàn, làm cho cả kinh thành, ai cũng hay biết việc ấy cả.
Chàng Hưng Nhi ra ngoài đường, lững thững không biết đi đâu, kế trời vừa tối, chàng vào trong am Quan Âm, nằm trước mái hiên, lăn qua trở lại, ngủ không được. Chàng bèn than thở một mình rằng: “Người ta có cha mẹ bà con, lại giàu sang tướng tốt; còn mình đã tứ cố vô thân, lại có cái tướng hại chủ. Nay không tội mà bị đuổi thì ai còn chịu làm chủ mình nữa; chi bằng chết cho mát thân còn hơn”.
Chàng suy đi nghĩ lại như vậy rồi mệt quá ngủ quên, bỗng thấy một người đàn bà, tay cầm nhánh lá, ở trong am bước ra đứng ngay trên đầu chàng. Chàng bèn lật đật ngồi dậy, thì bà ấy lấy nhành lá chỉ ngay nơi mặt chàng mà nói rằng:
"Con chớ nên tự tử vì con tuy có tướng xấu mà lòng con tốt, cũng có ngày kia con được nên thân”.
Bà ấy nói mấy lời như trên đó, liền bước vào trong am, kế Hưng Nhi giựt mình thức dậy, mới biết là điềm chiêm bao.
Sáng ra, chàng nhớ điềm mộng ấy, không dám tính tới việc chết nữa, có lo tìm đến các dinh quan, hoặc các nhà giàu sang mà xin ở hầu hạ. Nhưng đáng thương thay! Ai nấy nghe đến cái tên Hưng Nhi cũng đều làm ngơ, không chịu cho chàng ở cả. Chàng đi tối ngày cũng về am Quan Âm mà ngủ trọn nửa tháng trường như vậy.
Lúc ấy mười quan tiền của quan Bộ lang cho, thì chàng đã tiêu xài hết rồi, nên chàng bối rối trong lòng, biết tính làm sao mà độ nhật cho qua ngày tháng.
Một đêm nọ, chàng nằm thao thức, mà nghĩ rằng:
"Nửa tháng nay, mình đi cùng hết châu thành và chẳng có một người dung nạp, vậy mai đây mình phải ra khỏi châu thành mà tìm kiếm, họa may có gặp mối chăng!”.
Sáng ngày chàng thức dậy, vừa ra khỏi cửa thành, thì vừa muốn đi đại tiện; chàng liếc xem bốn phía, thấy nơi bờ hào thành có hai dãy cầu tiêu, dãy bên tả thì đàn ông tới lui không dứt; còn dãy bên hữu thì đàn bà cũng ra vào liên tiếp. Chàng nhắm dãy bên tả đi vào, lựa một căn trống bước tới, liền ngồi đại tiện vừa xong rồi khi đứng dậy ngó lên nóc cầu tiêu, thấy một gói bằng vải đen móc lủng lẳng.
Chàng lấy làm lạ, liền với tay xách gói xuống, biết nặng mà chưa hiểu vật chi ở trong, bèn đem ra chỗ vắng vẻ mở lớp vải ở ngoài thì thấy có 300 lượng bạc gói trong 30 gói bằng giấy xanh.
Khi mới thấy bạc ấy, thì chàng mừng rỡ mà nói rằng:
"Hay cho ta! Bữa nay hết tiền, may lại được bạc nhiều như thế, thì còn lo chi là nghèo và sợ chi là bị đuổi!”.
Chàng lại nghĩ rằng:
“Của này chắc là kẻ đi đại tiện mà bỏ quên, như người khách thương giàu có mà bỏ quên gói bạc này, dầu có mất đi nữa, thì họ còn bạc khác; ta có lấy luôn cũng không hại chi. Nhỡ như người thiếu hụt phải đi vay mượn, hoặc bán đất vườn, để lo việc công danh hay là việc hoạn nạn, mà ta lấy đi thì hại cho gia đình và tánh mạng của người lắm. Huống chi trời cho mạng ta cùng cực, làm đầy tớ cũng còn chưa yên lại phước đức đâu có mà hưởng của sẵn này? Duy có đem trả lại cho người là phải; đã chẳng hổ với lương tâm, lại khỏi hại đến công việc của người, mà cũng không trái ý Trời nữa”.
Chàng Hưng Nhi nghĩ vậy, liền xách gói bạc đến gần cầu tiêu, lỡ khi người ta không thấy, bèn moi đất vùi lấp gói bạc xuống, rồi ngồi gần một bên, chăm ngó vào cầu tiêu mãi, coi có ai đến kiếm hay không.
Chàng ngồi một chập lâu, bèn thấy một người đàn ông hơ hải chạy đến, vào căn cầu này qua căn cầu khác, luôn hết cả dãy cầu bên tả, rồi ra đứng ngoài, tay thì bứt tóc trên đầu, miệng thì nói rằng:
- Thế này thì tôi phải chết, còn sống làm chi!.
Hưng Nhi thấy người ấy hơ hải và nghe mấy lời than thở như thế, thì biết chắc là người đi kiếm gói bạc. Chàng liền lên tiếng kêu rằng:
- Ớ anh kia! Có việc chi cần kíp, thì lại đây tỏ cho tôi rõ, họa may tôi có thể giúp đỡ được!.
Người ấy nghe kêu liền chạy lại nói rằng:
- Em ôi! Thời vận của tôi thật xui! Nguyên chủ tôi giao bạc cho tôi đem đến Kinh mà lo sự thăng quan; hồi hôm tôi ngụ tại tiệm cơm gần cửa thành này mà vì phòng ngủ không có được chắc chắn nên tôi thức cả đêm, sáng ra tôi đến cầu tiêu này, lại móc gói bạc nơi cái đinh lớn, rồi khi đi tôi bỏ quên lại đó. Bây giờ tôi biết lấy chi mà lo việc cho chủ, và khi về biết dùng lời chi nói cho khỏi bị tội, nên tôi muốn liều mình tự vận cho rồi.
Hưng Nhi hỏi rằng:
- Chủ của anh làm quan chi? Còn anh là người chi của chủ, họ tên là gì, xin cho tôi biết, rồi tôi sẽ giúp cho.
Người ấy nói:
- Chủ của tôi là Trịnh Hùng, làm quan Chỉ huy tại phủ Hoài an, còn tôi đây là họ Trương, chủ cho làm chức Đô Quản, và người ta thường kêu tôi là Trương đô quản, nếu em biết ai lấy gói bạc đó, thì nói giùm cho tôi xin lại, ơn ấy tôi không dám quên.
Hưng Nhi lại hỏi rằng:
- Gói bạc của anh được bao nhiêu và hình tích cái gói ra sao? Anh nói cho tôi nghe thử?.
Người ấy đáp rằng:
- Ở ngoài gói bằng vải đen, còn trong gói có 300 lượng bạc gói bằng giấy xanh, mỗi gói là 10 lượng.
Hưng Nhi cười rằng:
- Chính em đây lượm được gói bạc ấy, nên ngồi đợi anh mà trả lại.
Chàng nói vừa dứt lời, liền moi đất xách gói bạc lên mà đưa cho người ấy.
Đô Quản thấy gói bạc của mình, thì rất mừng rỡ, bèn mở ra đếm lại, y nguyên không thiếu một lượng nào, rồi đứng dậy vòng tay thưa rằng:
-Em nhỏ người mà đức lớn, tôi xin kính lại 50 lạng mà đền ơn.
Hưng Nhi nói rằng:
- Nếu tôi muốn lấy gói bạc đó, thì tôi đã đem đi mất rồi, cần gì phải ngồi đây đợi anh làm chi. Xin anh chớ nên làm hư cho cái tâm thuật của em.
Trương đô Quản hỏi rằng:
- Em nhà cửa ở đâu, tên họ là chi, xin cho tôi biết, phòng sau tôi tìm đến mà đáp tình?.
- Em tên là Trịnh Hưng Nhi, 17 tuổi mồ côi từ thuở bé, không cha mẹ, không bà con, không nhà cửa chi hết. Em đương ở đày tớ cho quan Bộ lang, bị thầy tướng nói em có tướng hại chủ, nên bị đuổi đi hơn nửa tháng nay mà không chỗ nương tựa.
Đô Quản nghe nói, thì động mối thương tâm bèn nói rằng:
- Em đương còn cùng cực mà thấy của không tham thật là lòng dạ Thánh Hiền, dẫu người xưa cũng không bì kịp. Thôi! Em không cần đi đâu làm chi cứ theo tôi vào quán ăn uống và nghỉ ở đó với tôi, đặng sáng ngày mai em giữ giùm hành lý còn tôi thì vào các dinh quan mà lo công việc, đến chừng xong rồi tôi sẽ dẫn em về Hoài An thưa cho chủ tôi biết. Vả lại chủ tôi cũng đồng họ với em có lẽ em chắc được việc tốt. Dầu chủ tôi không dùng em, còn tôi đây làm chức Đô Quản có thể nuôi em năm ba năm cũng được.
Hưng Nhi nghe nói rất mừng, kế hai người dắt nhau vào quán ăn uống nghỉ ngơi, sáng ngày Hưng Nhi ở nơi quán mà giữ đồ hành lý, còn Đô Quản thì vào Bộ binh lo việc thăng bổ cho chủ mình là Trịnh Hùng xong, rồi trở lại chỗ nghỉ mà dẫn Hưng Nhi về xứ.
Khi đến Hoài An thì Đô Quản để Hưng Nhi đứng ngoài cửa ngõ; còn chàng thì vào bẩm các việc tại Kinh cho chủ hay.
Quan chỉ huy nghe nói rất mừng, bèn thốt rằng:
- Nay ta được thăng chức Du kích Tướng quân là cũng nhờ người thông thạo mới được việc.
Đô Quản bẩm rằng:
- Không phải nhờ tôi; thiệt là nhờ vị cứu tinh! Nếu không có vị cứu tinh đó, thì chẳng những chủ đã không quan chức mà thôi, lại tánh mạng của tôi cũng không còn!.
Ông Du kích hỏi rằng:
- Vị cứu tinh nào đó?
Đô Quản bèn đem việc mất bạc nhờ Hưng Nhi lượm được rồi trả lại...
- Như vậy sao không thỉnh về cho ta đền ơn?
Đô Quản bẩm rằng:
- Tôi có dắt người về, nhưng còn đứng ngoài cửa ngõ.
Ông Du kích lật đật ra ngoài nghinh tiếp, rồi dắt thẳng vào nhà khách mời ngồi, nhưng Hưng Nhi không dám cứ xin để cho chàng đứng hầu mà thôi. Sau chàng bị mời ép đôi ba phen, nên phải kéo lui cái ghế mà ngồi sụt ra sau.
Ông Du kích nhắm xem trạng mạo của Hưng Nhi biết không phải là người hạ tiện, liền nói rằng:
- Nhà ngươi họ Trịnh, còn ta đây cũng họ Trịnh, tuổi gần năm mươi mà vợ chồng trơ trọi không con. Ta muốn nhận nhà ngươi làm con phòng ngày sau nối dòng cho họ Trịnh mà không biết nhà ngươi vui lòng chăng?
Hưng Nhi bẩm rằng:
- Phận tôi hèn hạ, nếu quan lớn thương tội cho ở để sai khiến, thì cái ơn ấy đã lớn lắm rồi, có đâu dám mong đến sự làm con!.
Ông Du kích nói rằng:
- Không phải như vậy đâu! Nhà ngươi là một vị ân nhân của ta mà lại là người khinh tài trọng nghĩa nữa; nếu ta lấy tiền của mà đền đáp thì nhà ngươi không chịu; còn mang ơn mà không báo thì ta là người gì?
Hưng Nhi nghe nói cạn lời thì chàng hết phương từ chối, liền cúi lạy ông mà kêu bằng cha.
Ông Du kích bèn cho mời phu nhân ra cho chàng lạy mà kêu bằng mẹ, rồi đặt tên chàng lại là Trịnh Hưng Bang.
Từ ấy về sau ai nấy ở trong xứ đó cũng kêu chàng bằng Công tử cả.
Nói qua Trịnh Hưng Bang thời tốt vận đỏ nên từ khi làm con của quan Du kích tướng quân, thì chàng xem sóc các việc trong ngoài, lại biết quạt nồng ấp lạnh, sớm viếng tối hầu, phải đạo một người con hiếu.
Quan Du kích thấy vậy vui mừng khôn xiết bèn đem hết 18 món võ nghệ chỉ dạy chẳng ít lâu, thì chàng đều tinh thông cả. Ông lại rước thầy văn thật giỏi về dạy nữa, thì chàng cũng gắng chí học hành, dùi kinh nấu sử được vài năm đã thành ra một người văn võ kiêm toàn, thiên hạ thảy đều kính phục.
Sau nhân quan Du kích làm chức Tiên phong đi đánh giặc Sào hồ, thì Trịnh Hưng Bang cũng theo cha lập được nhiều công trận.
Quan nguyên soái thấy vậy đem lòng yêu mến, bèn phong chàng làm chức Chỉ huy rồi đến lúc yên giặc bang sư về triều, vua Vĩnh Lạc phong quan Du kích làm chức Điện tiền Đại tướng quân và phong cho Trịnh Hưng Bang chức Du kích tướng quân. Từ ấy cha con đều ở tại Kinh sư mà cung chức.
Một ngày kia, Trịnh Hưng Bang sực nhớ lúc ở hầu hạ quan Bộ lang tuy chàng bị đuổi, nhưng biết xét rằng, tại chủ nghe lời thầy tướng chớ không phải ở bạc tình với mình. Chàng bèn nghĩ rằng đã về ở gần nhà mà không đến thăm viếng thì sao phải là đạo làm người.
Khi chàng vừa đến dinh quan Bộ lang thì gia nhân chạy vào báo rằng: “Có quan Du kích đến viếng”.
Quan Bộ lang lật đật ra ngoài nghinh tiếp thẳng vào nhà khách rồi mời ngồi nhưng quan Du kích đứng vòng tay mà thưa rằng:
- Ngài là chủ còn tôi là tớ thì đâu dám ngồi đồng bàn, vậy tôi xin đứng hầu mà thôi.
Quan Bộ lang nghe nói lạ như vậy, bèn hỏi rằng:
- Sao quan Du kích lại xưng hô như thế, làm cho tôi xốn xang tấc lòng.
Du kích thưa rằng:
- Vậy chủ không nhớ tôi đây là Hưng Nhi sao?
Quan Bộ lang nghe nói liền nhìn kỹ lại mới biết là thằng ở của mình đuổi thuở trước, chỉ khác vì mặc áo, mão rực rỡ mà thôi.
“Rỡ mình lạ vẽ cân đai,
Hãy còn hàm én mày ngài như xưa”.
Quan Bộ lang đứng dậy nắm tay quan Du kích mà xin lỗi rằng:
- Khi đó tôi nghe lời Viên Thượng Bửu, khiến cho tôi đắc tội cùng ngài, nay đã muộn rồi, ăn năn không kịp vậy xin ngài dung thứ cho tôi.
Quan Du kích bèn thưa rằng:
- Trăm việc đều tại Trời, không phải bởi người làm chủ. Nếu lâu nay tôi còn ở đây thì bây giờ tôi đâu có phát đạt; việc ấy là tôi nhờ lời nói của ông Thượng Bửu, nên tôi không phiền chủ chút nào và tôi cũng cám ơn ông Thượng Bửu nữa.
Lúc ấy vừa có kẻ gia nhân vào báo rằng:
“Có ông Thượng Bửu đến viếng".
Thì hai người muốn thử ông, bèn nói nhỏ với nhau rồi dắt vào trong phòng mà sửa soạn.
Khi ông Thượng Bửu vào đến nhà khách, thì quan Bộ lang bước ra chào hỏi mời ngồi và bảo trẻ đem trà ra thết đãi, kế thấy Hưng Bang mặc đồ cũ của kẻ gia nhân tay bưng khay trà bước ra pha, rồi khoanh tay đứng hầu.
Ông Thượng Bửu thấy Hưng Bang bèn ngó xem một hồi rồi hỏi rằng:
- Ngài này là người chi trong nhà, xin mời ngồi đây nói chuyện sao lại phải đứng như vậy?
Quan Bộ lang nói:
- Ngài không nhớ Hưng Nhi ở nhà tôi thuở trước mà ngài nói có tướng phòng chủ hay sao?
Ông Thượng Bửu nghe nói, sực nhớ chuyện cũ năm xưa liền xem lại kỹ lưỡng mà nói rằng:
- Ngài này thật quả giống Hưng Nhi năm trước, nhưng tướng xấu thuở ấy đã biến đi đâu mất rồi, nay lại hiện ra cái tướng quan võ, giàu sang gồm đủ. Vả lại tướng ngày nay là bởi nhờ âm đức mà phát ra, tôi dám đoán chắc ngài có làm một việc âm đức chi, hoặc cứu người khỏi chết, hoặc xí được của rồi trả lại cho người, nên mới đổi được cái tướng tốt ấy.
Trịnh Hưng Bang nghe nói mấy lời bèn khen rằng:
- Phép xem tướng của ngài thật là thần diệu!
Chàng bèn đem việc từ khi bị đuổi tới khi được bạc, rồi đến xứ Hoài An làm con của quan Chỉ huy từ trước đến sau thuật lại không sót một mảy.
Quan Bộ lang hỏi rằng:
- Nếu vậy thì hình tướng của người ta cũng có lúc dời đổi hay sao?
Ông Thượng Bửu nói:
- Ngài không nhớ trong sách tướng có câu rằng:
"Hữu tâm vô tướng, tướng tự tâm sanh.
Hữu tướng vô tâm, tướng tùng tâm diệt” đó hay sao?
(nghĩa là: Lòng tốt tướng xấu, thì tướng theo lòng tốt mà hiện ra; còn tướng tốt lòng xấu, thì tướng theo lòng xấu mà tiêu mất).
Khi ấy quan Bộ lang liền dắt Trịnh Hưng Bang vào trong phòng mà thay áo mão như cũ, rồi đồng ra uống trà nói chuyện với ông Thượng Bửu.
Sau Trịnh Hưng Bang làm đến chức Đại tướng quân, có vợ sanh con đẻ cháu, nối dòng họ Trịnh, làm quan võ luôn luôn. Đó là một tích người có lòng lành mà Phật trời đổi tướng bần cùng biến ra tướng phú quí. Cái lành ấy là thấy của không tham, cứu người khỏi chết mà được kết quả như vậy.
Biên tập: ĐĐ. Thích Thiện Minh - Thích Đồng Bổn
Các tin tức khác
- Cái gì của mình sẽ là của mình, không phải của mình thì cầu cũng không được (24/12/2022 7:53)
- Hiểu rõ hơn về "An" (24/12/2022 7:43)
- Làm gì để chuyển hóa đồng nghiệp buôn chuyện thị phi? (24/12/2022 7:42)
- Tỉnh mộng (23/12/2022 8:06)
- Làm người nên học lấy đức tính điềm đạm (22/12/2022 8:02)
- Bao dung càng nhiều thì cuộc sống lại càng vui vẻ (22/12/2022 8:00)
- Bước trên đường đời "chân con phải cứng để đá phải mềm" (22/12/2022 7:49)
- Hỏa táng rồi rải tro cốt có ảnh hưởng đến gia tộc và con cháu? (22/12/2022 7:45)
- Người phú quý cung kiệm, có lễ không kiêu, chính là phẩm đức, đáng để thâm giao (21/12/2022 8:02)
- Trộm một chiếc vòng, kiếp sau đầu thai làm ngựa mà trả (21/12/2022 7:49)