Phật bảo Ngài lạy là lạy những bậc tiền bối, vì trong đống xương khô ấy có hài cốt của lục thân quyến thuộc và có thể ngay cả của chính mình trong nhiều đời trước.
Đứng bên đống xương bừa bãi, hình ảnh bà con quyến thuộc bao đời trôi lăn trong sanh tử hiện ra, gợi nguồn cảm xúc vì ân nghĩa tương thân, về đạo lý làm người đối với các đấng sanh thành dưỡng dục. Nhân đó, Đức Phật đã nói về sự khó nhọc, cằn cỗi, héo hon của người mẹ do mang thai, sinh đẻ, bú mớm làm cho xương tủy hao mòn. Và vì vậy xương của đàn bà nhẹ và đen hơn xương của đàn ông.
Tiếp nhận lời dạy của Phật, Tôn Giả A Nan nghĩ đến công lao sanh dưỡng của cha mẹ thật là sâu nặng, nên Ngài cầu Phật chỉ dạy phương pháp báo hiếu để người hiếu thảo vâng hành.
Trước khi huấn thị về cách báo hiếu, Đức Phật trình bày tóm lược mười công đức của cha mẹ như sau:
- Một là trong thời gian mười tháng cưu mang, người mẹ phải thận trọng giữ gìn, nuôi nấng chăm sóc thai nhi hết sức chu đáo;
- Hai là, đến ngày sanh nở sự nguy hiểm và khó nhọc trăm phần: sanh được thì sống, không sanh được thì chết.
- Ba là mẹ chịu cực khổ nuôi con từ tấm bé. Mỗi khi trái gió trở trời em bé nóng mình khó ở thì người thao thức bỏ ăn mất ngủ, nhưng không vì vậy mà phiền hà.
- Bốn là mẹ ăn đắng nuốt cay, để dành bùi ngọt cho con.
- Năm là săn sóc chăm chút cho con từng ly từng tí, chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo con lăn.
- Sáu là sú nước nhai cơm, bế bồng bú mớm.
- Bảy là mẹ phải chịu đựng ô uế, tắm rửa giặt giũ đồ dơ cho con.
- Tám là lớn lên, khi con đi ra, cha mẹ phải lo lắng buồn phiền.
- Chín là cha mẹ cam chịu nghiệp chướng khổ đau, chỉ mong cho con được sung sướng.
- Mười là cha mẹ kham nhẫn sự thiếu thốn để con được sống thanh nhàn.
Phật bảo công ơn sinh dưỡng của cha mẹ sâu nặng như thế mà không có mấy người biết được ân đức cao dày này, nên khi bị rày rà thì liền trả treo ngỗ nghịch, phùng mang trợn mắt, chẳng kể người trên trước, không biết nghĩa tương thân. Hoặc bỏ nhà ra đi biền biệt không về thăm viếng. Hoặc phá hết của cải rồi theo bọn trộm cướp để rồi bị tù tội hay bỏ xác nơi xứ người. Vậy mà khi nghe tin, cha mẹ vẫn xót thương buồn khóc, có thể vì thế mà mắt bị mù, thân bị bại, song vẫn không nguôi. Như thế, con có thể không thương cha mẹ, nhưng cha mẹ bao giờ cũng yêu thương con. Nên tục ngữ có câu: “Hùm dữ không ăn thịt con” là vậy. Cha mẹ sanh con bao giờ cũng muốn cho con nên người hữu dụng và có hiếu thảo. Lòng mong ước ấy thật bền bỉ kiên trì và dễ thương vô hạn. Nhưng gặp phải đứa con bất hiếu bất mục, cha mẹ cũng phải cam chịu cảnh bất hạnh phũ phàng đơn côi đói rách, nhất là trong những ngày tàn trống vắng dưới mái tranh leo lét đìu hiu.
Đại chúng nghe Phật kể tội bất hiếu của con người thì sinh lòng cảm thương bi lụy, và thấy chính mình cũng phạm vào những lỗi lầm này, nên có người tự trách và tự hành hạ mình cho đến thân thể đẫm máu và tâm thần bất tỉnh, rồi tự thán rằng:
Bọn ta quả thiệt tội nhân
Xưa nay chẳng rõ không hơn người mù
Nay tỏ ngộ biết bao lầm lạc
Ruột gan dường như nát như tan.
Đã thật sự thấy được ân đức cao dày của cha mẹ nhiều đời mà từ trước tới nay vì vô minh nên hờ hững lãng quên. Ngày nay tỏ bày lòng thành hối hận, nên Đại chúng lại cầu Phật chỉ cách báo đáp thù ân.
Phật bảo ân cha mẹ không có gì so sánh được, không có cách phụng dưỡng nào có thể đền đáp được:
Ví có người ơn sâu dốc trả
Cõng mẹ cha tất cả hai vai
Giáp vòng hòn núi Tu Di
Đến trăm ngàn kiếp ơn kia chưa đền
Ví có người gặp cơn đói rét
Nuôi song thân dùng hết thân này
Xương nghiền thịt nát phân thây
Trải trăm nghìn kiếp thân đây chưa đồng
Nhưng ân đức của cha mẹ có thể báo đáp được khi người con chí thành ăn năn lỗi trước, vì cha mẹ biên chép, lưu truyền và trì tụng Kinh này. Đồng thời cúng dường Tam bảo, phụng hiếu chúng Tăng trong ngày Tự Tứ để cầu nguyện cho cha mẹ hiện tại và lục thân quá vãng được an vui tự tại, giải thoát khổ đau, nhất là tự mình phải chuyên trì tam quy ngũ giới, sống đời gương mẫu cho con cháu noi theo.
Cuối cùng Đức Phật xác định: bất hiếu là tội đứng đầu trong năm trọng tội. Kẻ mắc vào tội này bị rơi vào địa ngục vô gián, nghĩa là bị hành hạ suốt ngày đêm cho đến trăm nghìn kiếp không có một giây gián đoạn.
Đến đây hai con đường họa, phúc mở ra rõ ràng cho hàng tứ chúng. Vì vậy tất cả Đại chúng đồng thanh phát nguyện tuân giữ phụng hành lời dạy vàng ngọc về hiếu đạo của Đức Thế Tôn.
Theo TTM
Các tin tức khác
- Luyện tâm khỏe người ( 1/07/2014 4:30)
- Điểm yếu, điểm mạnh (30/06/2014 10:58)
- TP.HCM: Ra quân "Tiếp sức mùa thi 2014" (28/06/2014 10:21)
- Đừng tưởng mình ghê gớm (27/06/2014 11:08)
- Những gì trẻ học được (25/06/2014 2:14)
- Đừng ngại ngùng (24/06/2014 1:28)
- Niềm tin của người thất bại (20/06/2014 11:03)
- Khỉ vớt trăng (18/06/2014 10:41)
- Cuộc sống luôn có hai đáp án (18/06/2014 1:30)
- Thương nhau phải kính nhau (16/06/2014 4:27)