Đức Thế Tôn và hạnh vô úy

22/05/2013 2:14
Một thời Thế Tôn trú ở Àlavi, tại trú xứ của Dạ-xoa Àlavaka. Rồi Dạ-xoa Àlavaka nói với Thế Tôn: “Này Sa-môn, hãy đi ra!” Thế Tôn nói: “Lành thay, Hiền giả” và đi ra. Rồi lần thứ 2, lần thứ 3 Dạ-xoa đã yêu cầu đức Thế Tôn như thế và đức Như Lai cũng đã thực hiện việc đi ra, đi vào như vậy một cách hoan hỷ.

Nhưng ở lần thứ tư, Dạ-xoa Àlavaka lại nói với Thế Tôn: “Này Sa-môn, hãy đi ra” và Thế Tôn đã đáp lời: “Này Hiền giả, Ta không đi ra. Hãy làm gì ông nghĩ là phải làm”. “Này Sa-môn, ta sẽ hỏi ông một câu hỏi. Nếu ông không trả lời ta được, ta sẽ làm tâm ông điên loạn, hay ta làm ông bể tim, hay nắm lấy chân, ta sẽ quăng ông qua bờ bên kia sông Hằng”. Và Thế Tôn trả lời: “Này Hiền giả, Ta không thấy một ai, ở thế giới chư Thiên, Ma giới hay Phạm thiên giới, với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người có thể làm tâm Ta điên loạn, hay làm bể tim ta, hay nắm lấy chân quăng Ta qua bờ bên kia sông Hằng. Tuy vậy, này Hiền giả, hãy hỏi đi như ông muốn”.

Dạ-xoa hỏi: “Cái gì đối với người đời là tài sản tối thượng? Cái gì khéo hành trì đem lại chơn an lạc? Cái gì giữa các vị là vị ngọt tối thượng? Phải sống như thế nào để được gọi là sống tối thượng? ”

Đức Thế Tôn đáp: “Lòng tin đối với người đời là tài sản tối thượng. Chánh pháp khéo hành trì sẽ đem lại chơn an lạc. Chân lý giữa các vị là vị ngọt tối thượng. Phải sống với trí tuệ được gọi là sống tối thượng”.

Qua cuộc đối thoại, đức Thế Tôn đã cho chúng ta thấy cuộc đấu sức mạnh quyền uy lẫn đấu trí của Ngài với Dạ-xoa Àlavaka. Nhưng ở đây người viết không đi sâu vào tư tưởng giáo lý được truyền tải mà chỉ muốn chia sẻ một vài phẩm chất, đức tính về cách hành xử được đức Thế Tôn thể hiện trong khi đối thoại và để thấy được lối sống mà đức Từ Phụ muốn truyền trao cho chúng ta.

Đầu tiên chúng ta có thể thấy được đức tính hòa nhã thanh thoát, tự tại qua ngôn hành của Ngài. Tuy Dạ-xoa Àlavaka nói những lời thô ác, xem thường nhưng Ngài vẫn giữ sự khoan thai, tự tại bằng ngôn hành: "Lành thay hiền giả". Ngài đã hành xử với tâm từ để nhiếp phục và chuyển hóa Dạ-xoa với ngôn hành từ ái, đầy pháp vị của mình.

Đồng thời cách hành xử của Ngài cũng đã dạy cho ta một bài học về phẩm hạnh của vị Sa-môn: tự tại đối với sức mạnh quyền uy lẫn sức mạnh vật chất; nghĩa là vị sa-môn phải tự tại hay đúng hơn là không bị sự chi phối bởi những vấn đề không liên quan đến những phương pháp, con đường dẫn đến hạnh phúc giải thoát tối thượng. Điều này được minh chứng bằng thân hành tự tại, vô úy của đức Phật đối vối sức mạnh quyền uy của Dạ-xoa Àlavaka. Ngài đã từ chối không làm theo lời yêu cầu một cách thái quá của Dạ-xoa ở lần thứ tư.

Đây chính là bài học về thân hành vô úy của đức Thế Tôn. Sau này Tổ Huệ Viễn đã luận giải lại vấn đề vô úy, không luồn cúi trước sức mạnh thế tục bằng tác phẩm Sa Môn Bất Kỉnh Vương Giả Luận. Tác phẩm này ra đời nhân sự kiện Thái úy Hoàn Huyền dựa vào vua mà ban chiếu bắt sa môn phải cúi lạy, khuất phục trước sức mạnh thế tục nhằm nhắc nhở hàng tu sĩ đương thời lẫn hàng hậu học về gia tài pháp bảo cũng như nhằm giúp cho đạo pháp sẽ không bị mai một về sau. Và hơn thế nữa, Huệ Viễn đại sư đã nhấn mạnh rằng:

“Sa môn là thượng sĩ xuất trần đâu thể uốn gối quỳ lạy quân vương! Bởi hàng sa môn đã đem những điều cao đẹp mà thiên hạ lãng quên hòa vào dòng đời thế tục, khiến cho những kẻ có tham vọng cao phải uốn mình theo lề lối, làm cho kẻ yếu hèn cũng nhận được lợi lạc".

Và Ngài còn giải thích thêm về lý do vì sao hàng sa-môn không nên luồn cúi trước sự giàu sang, uy quyền, sức mạnh từ bên ngoài:

“Sa môn là người thấu triệt mọi âu lo trói buộc nơi thân, đoạn dứt thói thường của thân tâm nhằm nhổ tận gốc rễ âu lo. Biết thân trong nhiều đời do bẩm thọ mà có, nên họ chẳng thuận theo thói đời để cầu chỗ thú hướng, cầu nơi thú hướng chẳng thuận theo dòng chuyển lưu. Nay Sa-môn sở dĩ không quỳ lạy quân vương là nhằm nêu cao diệu đạo”.

Đồng thời qua cách hành xử đó, chúng ta còn thấy được sự kiên nhẫn của Ngài đối với mọi hoàn cảnh bên ngoài mà ở đây chính là lòng nhẫn nại bằng tâm từ đối với Dạ-xoa. Sự kiên nhẫn ấy được thể hiện bằng hành xử với 3 lần đi ra, đi vào nhưng trong tâm của Ngài không hề có một chút tâm niệm thù hằn, oán trách Dạ-xoa Àlavaka và làm cho tham vọng, sức mạnh uy quyền của Dạ-xoa phải rúng động, lay chuyển. Cho nên Dạ-xoa đã không thể tiếp tục dùng sức mạnh quyền uy để uy hiếp và làm cho Thế Tôn khiếp sợ mà đã chuyển hướng sang đấu trí với đức Như Lai.

Chính sự đấu trí ấy đã tạo điều kiện, nhân duyên thuận lợi giúp cho đấng Toàn Giác có cơ hội giáo hóa, mang ánh sáng chân lý đến để chuyển hóa sự tăm tối của Dạ-xoa Àlavaka. Ngài đã thể hiện một tinh thần phụng sự, hoằng truyền chánh pháp, mang lại lợi ích cho tất cả chúng sanh, không phân biệt giai cấp, bạn hay thù. Điều này được Thế Tôn minh chứng bằng lối đối đáp, dạy lại con đường trí tuệ, lối sống minh triết cho Dạ-xoa một cách hiền hòa từ ái “Này Hiền giả ….” cho dù Dạ-xoa có dùng sức mạnh thiên thần để hại Người. Và Ngài cũng tái khẳng định rằng: sức mạnh tinh thần nội tâm sẽ không bị khiếp sợ bất cứ sức mạnh nào từ bên ngoài; đồng thời chúng có đủ sức mạnh để nhiếp phục và giáo hóa ác ma. Cho nên, chính thân hành của Ngài đã nhiếp phục được tham vọng, sự kiêu căng ngạo mạn của Dạ-xoa.

Đây chính là bài học vô giá về thân giáo mà đức Thế Tôn đã sử dụng để truyền trao cho hàng sa-môn đệ tử của ngài; nhằm giúp cho chúng ta thấy được con đường hạnh phúc tối thượng là phải phá tan tà kiến, đoạn tận mọi kiết sử để thân chứng đời sống tự tại giải thoát. Chỉ có thân chứng bằng con đường trí tuệ mới có đủ khả năng loại bỏ, nhiếp phục những ác ma từ bên ngoài như tiền tài danh vọng… lẫn ác ma bên trong với sự chỉ huy của tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến… để làm chủ đời sống của mình như đức Thế Tôn đã hành xử với Dạ-xoa Àlavaka.

Theo ĐPKS

Các tin tức khác

Back to top