Một người nghĩ về sắc đẹp, tiền tài trong quá khứ, người khác lại nghĩ về tiền tài và sắc đẹp trong tương lai. Dự phóng của tâm trí đưa tâm trí xao nhãng khỏi hiện tại, đó cũng là một nguyên nhân khổ đau, bất toại.
Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng,
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến,
Chỉ có pháp hiện tại,
Tuệ quán chính ở đây.
Không động, không rung chuyển,
Biết vậy nên tu tập
Hôm nay nhiệt tâm làm
Ai biết chết ngày mai?
Không ai điều đình được
Với đại quân thần chết,
Trú như vậy nhiệt tâm
Ðêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ Hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.
(Kinh Nhất Dạ Hiền Giả thuộc Trung Bộ Kinh)
Hướng tâm đến hiện tại không phải là điều khó làm. Trong giờ thiền hành, ta nhận rõ từ ý thức đến sắc thân, bước từng bước chân an lạc. Lúc tụng kinh, thân khẩu ý đều nhất tâm chuyên chú. Hiện pháp là lời kinh, con đường, ngũ uẩn, đóa hoa, tiếng xe, là nội thân và ngoại thân, và vô vàn những thứ khác. Tri nhận hiện pháp không phải là thường kiến, vì hành giả thấy cái thấy, biết sự biết, không đắm say vào khách thể, hiểu biết tam tướng của vạn pháp. Chấp nhận hiện pháp là chấp nhận sự tồn tại của ngũ uẩn trong tương giao với thế giới xung quanh trên nền trùng trùng duyên khởi. Ngũ uẩn có thực hay không? Nếu không thì vì sao châu thân này đưa đến thọ đau, thọ lạc? Nếu có thì vì đâu Phật dạy nó vô thường, vô ngã? Chúng ta không vội vàng với những câu hỏi đó. Vì nói không, thì không khác gì chấp đoạn diệt, còn trả lời có lại dễ sa vào thường kiến.
Hiện pháp cũng cần đi đôi với lạc trú. Lạc trú là một kết quả của tác ý chân chánh, là sự lìa bỏ tà niệm, cũng là an trú trong chánh niệm. Luận sư Phật Âm trong Thanh Tịnh Đạo Luận từ thế kỷ V liệt kê bốn loại tà niệm cần xả bỏ:
1. Chấp thân thể là thanh tịnh, tốt đẹp, ưa chuộng, trong khi thân thể vốn bất tịnh do các duyên giả hợp thành.
2. Chấp cảm thọ (lạc thọ, khổ thọ, bất khổ, bất lạc thọ) là thật nên tham đắm, hoặc chán ghét, dù cảm thọ là do duyên sinh.
3. Chấp tâm là trường tồn trong khi tâm luôn là vô thường.
4. Chấp vạn hữu là thật có, là hữu ngã trong khi vạn pháp là duyên sinh vô ngã.
Chúng ta nhìn ngắm hiện sinh, chánh niệm tỉnh giác và an trú trong đó, với cái nhìn không đắm trước, đó là một phương pháp để điều phục thân tâm vậy. Khi tâm được định, cái định ấy có thể là sát-na định, định trong khoảnh khắc, hay là an chỉ định, trí huệ mới có cơ hội phát sinh. Từ chánh niệm đến tuệ sinh là một chặng đường không thể nói là dài hay ngắn, chỉ có thực tập mới đem lại tiến bộ cho hành giả trên đạo lộ giải thoát. Sự tiến bộ ấy mau hay chậm, không chỉ tùy thuộc chúng ta dụng công đến đâu, mà còn nhờ vào chất liệu hạnh phúc ta tạo tác. Hạnh phúc là chỉ dấu phước đức của ta, tu phước thì hạnh phúc, tu tuệ thì thông minh sáng dạ, có thật như vậy không? Thật ra tu phước và tu huệ là hai mặt của đồng tiền. Hạnh phúc, an lạc cho chính mình và mọi người xung quanh chẳng thể sinh ra trong quá trình tu tập nếu như ta không khai triển pháp hành đúng mực. Văn – tư – tu là ba giai đoạn của tiến trình thu nhận Phật pháp. Tiếp nhận lời Phật và chư Tổ dạy, tư duy chân chánh về những lời dạy ấy và áp dụng vào đời sống hàng ngày, chính là quá trình khiến trí tuệ tăng trưởng. Trí tuệ ta vun bồi, giới hạnh được gìn giữ, thì định tâm dần kiên cố.
Thực tánh các pháp đều là như huyễn, là “hoa đốm hư không”. Chánh niệm để ta trực nhận hiện tiền, là cơ sở để thực hành hiện pháp lạc trú, cũng là yếu tố căn bản Bát Thánh đạo. Từ chánh niệm nhận ra chân tâm, bản chất của vạn pháp. Mong rằng mỗi chúng ta đều siêng năng và gặt hái thành tựu từ con đường Chánh niệm. Xin kết bài bằng vài câu kệ của HT. Thích Thanh Từ:
Gẫm xem các pháp đều như huyễn,
Bản tánh tự không đâu dụng trừ.
Nếu biết tâm tánh không tướng mạo,
Lặng yên chẳng động tự như như.