Phật độ nàng Ma Đăng Già

21/05/2014 11:32
Ma Đăng Già là cô gái xinh đẹp thuộc giai cấp Chiên Đà La. Cha mất sớm, cô ở với mẹ. Một hôm, cô ra giếng múc nước, ngài A Nan đi đường khát nước ghé vào giếng xin nước. Cô Ma Đăng Già thấy trên trán ngài A Nan có dấu ti ka nên nàng lui không dám cho nước. Ngài A Nan nói, “Ta xin nước chớ không xin giai cấp, nàng đừng sợ hãi, hãy cho ta nước.”

Ngài nói vậy, nàng Ma Đăng Già mới mạnh dạn đến bên ngài múc nước cho ngài. Nhưng không có gì đựng, ngài A Nan xăn tay áo lên, rửa tay và bụm nước uống. Ngài để lộ hai cánh tay vừa trắng vừa đẹp. Nàng nhìn lên gương mặt, thấy ngài A Nan đẹp làm sao! Giống như một thiên thần giáng thế. Nàng tự nói thầm, “Ôi, Ngài A Nan, người thanh niên đẹp trai như thế mà đi tu thật là uổng. Ước gì là chồng ta thì thật là hạnh phúc biết bao!”

Ngài A Nan uống nước xong, mỉm miệng cười, cám ơn cô. Cô Ma Đăng Già nghe giọng nói của ngài A Nan như rót mật vào lòng, “Giọng nói của ngài A Nan sao mà thanh tao ngọt lịm như thế!”

Nàng Ma Đăng Già đội nước về nhà mà tâm tư cứ tưởng về ngài A Nan. Nàng suy nghĩ tìm cách chiếm đoạt ngài A Nan, nhưng khó quá. Ngài A Nan thường đi theo Phật thì làm sao mà gần gũi tâm tình được. Nàng ôm một mối tình thầm lặng tuyệt vọng. Nàng quên ăn, bỏ ngủ, nét mặt bơ phờ như người mất hồn.

Bà mẹ thấy nàng như vậy, tưởng nàng bị bệnh, liền chăm sóc hỏi han nhưng nàng làm thinh lắc đầu. Bà mẹ đi mời thầy thuốc về để bắt mạch, hốt thuốc. Thầy thuốc sau khi bắt mạch, xem sắc diện của nàng. Thầy thuốc nói riêng với bà mẹ rằng, “Bệnh nàng thuộc về tâm bệnh, uống thuốc không hết được. Bà hãy tâm sự với cô. Cô được thỏa mãn nguyện vọng thì cô sẽ hết bệnh.”

Bà mẹ nghe nói như vậy, liền đến bên giường nắm tay con gái rồi nói rằng, “Con có tâm sự gì hãy nói cho mẹ nghe. Mẹ sẽ làm vừa ý con.”

Ma Đăng Già ôm mẹ khóc thưa, “Con yêu ngài A Nan, muốn được toại nguyện, chắc con chết mất. Mẹ có thương con hãy giúp cho con được như ý thì con mới sống được mẹ ơi!”

Nước mắt cô đầm đìa chảy xuống vai mẹ. Thân thể cô run rẩy, lời nói cô nghẹn ngào nức nở.

Bà mẹ thấy vậy thương con, hứa sẽ làm cho con mãn nguyện. Cô mừng rỡ, cảm ơn mẹ. Cô bắt đầu ăn uống lại và trang điểm trông thật xinh đẹp.

Bà mẹ cô đến cầu ông Bà La Môn chuyên dùng chú thuật mê hoặc người. Ông cho bà một bài thần chú của Ca Ty La Phạm Thiên đem về cho con gái học thuộc rồi chờ dịp làm mê hoặc A Nan.

Hôm ấy, nhằm ngày húy kỵ cha của vua Ba Tư Nặc. Vua thỉnh Phật và thánh chúng vào cung cúng dường. Ngài A Nan về sau nên không kịp đi dự lễ trai tăng này. Ngài đắp y chỉnh tề, ôm bình bát và đi khất thực. Ngài nghĩ nên vào những đường hẻm để tạo nhân duyên cho những người nghèo được gieo phước.

Nàng Ma Đăng Già ở trên gác, từ xa đã thấy ngài A Nan đi vào đường hẻm của nhà nàng. Nàng vui mừng khấp khởi, chuẩn bị thức ăn để cúng dường và thực hiện theo ước muốn của nàng.

Khi Ngài A Nan đến trước cửa nhà Ma Đăng Già, cô mang cơm ra cúng dường và đọc thần chú Ca Tỳ La Phạm Thiên. Ngài A Nan hôn mê và bị dẫn vào phòng riêng ép uổng tình duyên. Ngài A Nan tuy bị hôn mê nhưng vẫn giữ được giới thể.

Ở cung vua, đức Phật thọ trai xong, theo thường lệ, thăng tòa thuyết  pháp. Nhưng hôm nay đức Phật thọ trai xong liền vội vã đi về tịnh xá. Các thánh đệ tử cũng theo về. Các ưu bà tắc, ưu bà di và vua Ba Tư Nặc biết có chuyện quan trọng nên cũng theo Phật về tịnh xá Kỳ Hoàn.

Khi về đến tịnh xá, đức Phật liền thăng tòa nhập định. Từ nhục kế phóng ra hào quang trăm báu trang nghiêm. Trong hào quang hóa hoa sen ngàn cánh. Trên hoa sen có đức Hóa Phật phóng mười luồng hào quang sáng. Mỗi luồng hào quang hiện hằng hà sa kim cang mật tích. Vị thì cầm chày, vị thì bưng núi, trông rất dễ sợ. Trong hàng tứ chúng vừa mừng vừa sợ, cầu Phật che chở.

Đức Hóa Phật phóng hào quang và nói thần chú Lăng Nghiêm. Phật Thích Ca sai ngài Văn Thù Sư Lợi đem năm đệ thần chú Lăng Nghiêm đến nhà của Ma Đăng Già, đứng trên hư không và đọc năm đệ thần chú. Khi đọc xong năm đệ thần chú, thần chú Ca Tỳ La Phạm Thiên mất hiệu nghiệm. Ngài A Nan tông cửa chạy về chốn Phật. Nàng Ma Đăng Già chạy theo bắt lại.

Khi đến chốn Phật, nàng bạch Phật rằng, “Bạch đức Thế Tôn, ngài A Nan là người yêu của con. Nếu không có chàng chắc con chết mất. Đức Thế Tôn là đấng đại từ đại bi, đâu nỡ để con chết đau khổ như thế!”

Đức Phật hỏi, “Con thương A Nan lắm phải không?”

“Bạch đức Thế Tôn, con rất thương yêu A Nan. Con muốn được làm vợ A Nan.”

Đức Phật dạy, “Con là người thế gian, A Nan là người tu, làm sao co thể sánh đôi chồng vợ? Con muốn làm vợ A Nan thì con cũng phải đi tu như A Nan thì ta mới gả cho.”

Nàng Ma Đăng Già thưa, “Xin đức Thế Tôn giữ lời hứa.”

Đức Phật dạy, “Ta sẽ hứa.”

Nàng Ma Đăng Già mừng rỡ, về nhà xin mẹ xuất gia để được Phật gả A Nan cho. Bà mẹ nói, “Người nữ đẹp là nhờ có mái tóc. Khi cạo rồi đâu còn đẹp. Hơn nữa đã xuất gia thì làm sao có chồng vợ được. Coi chừng con mắc lừa Sa môn Cù Đàm!”

Tuy nghe mẹ nói như vậy, nhưng vì thương A Nan nên nàng đến cầu xin Phật xuất gia. Phật chấp nhận và giao cho bà Đại Ái Đạo tỳ kheo ni dạy bảo.

Một tháng sau, Phật không cho Ma Đăng Già gặp A Nan nữa. Lòng nhớ thương của Ma Đăng Già càng tăng lên gấp bội. Nàng không nhịn được liền đi đến chốn Phật xin Phật gả A Nan cho nàng đúng như lời Phật đã hứa. Đức Phật lại hỏi, “Con thương A Nan lắm phải không?”

“Dạ, con yêu thương A Nan lắm. A Nan có vầng trán cao, có cặp mắt trong xanh, có chiếc mũi dọc dừa trông rất đẹp, có cặp môi hồng, răng trắng, khi nói cười trông rất dễ thương. A Nan có thân hình cân đối nở nang, trông như một vị thiên thần. Dáng đi giống như voi chúa. Do đó con rất yêu thương A Nan.”

Phật dạy, “Con đã lầm. Cái mà con trông cho xinh đẹp, dễ thương đó chỉ là lớp da bên ngoài mà thôi. Còn bên trong không có gì đẹp đẽ cả.

“Vầng trán cao, bên trong có óc nhầy nhụa như đậu hủ. Cặp mắt trong xanh, khi nhặm sẽ đổ ghèn. Chiếc mũi dọc dừa, khi cảm sẽ chảy mũi nước. Môi hồng, răng trắng, trông rất đẹp, nhưng thường khạc nhổ đờm giãi. Còn trong thân mang một thùng phân và một bô nước tiểu, đều là nhơ nhớp, hôi hám, không có gì đáng yêu, đáng quý đâu con!”

Phật dạy đến đây, cô nhờ túc thế thiện căn nên giác ngộ được thân thể là bất tịnh, vô thường. Người tình khô cạn, ái dục cũng tiêu mòn. Sau khi nhận diện bản thân này là bất tịnh, cô tinh tấn tu hành chứng được quả thánh.

Cũng do sự tích này nên chư tổ trích soạn thần chú Lăng Nghiêm để tụng vào buổi khuya, để các người tu trẻ tuổi thường tụng cho tiêu trừ nghiệp ái dục, tu hành mới được đến nơi đến chốn.

Đừng theo dục vọng thấp hèn,
Sống đời buông thả, đắm chìm ái ân.
Đừng mang thành kiến sai lầm,
Đừng tăng thêm mãi nhân gian não phiền.
Luân hồi sanh tử triền miên.

Theo Góp Nhặt Lá Bồ Đề - Thích Tịnh Nghiêm

Các tin tức khác

Back to top