Hiện tại vui tương lai vui

11/07/2014 6:38
Kinh Phật đưa ra tình huống rất nhiều người do tu tập nhiều đời nhiều kiếp, khi sinh ra, các năng lực của hạt giống thiện, căn tu có sẵn nên lòng tham, lòng sân, lòng si không nhiều. Nếu họ sinh ra trong môi trường tốt, phát triển đời sống tâm linh, dù không đi tu thì cũng trở thành những người gương mẫu trong xã hội, làm rất nhiều việc, dấn thân phục vụ mà không hề kể công, ỷ lại hay thỏa mãn tự hào. Họ trở thành con người hoàn toàn vô ngã với tấm lòng rất bao la.

Đối với lòng tham: Hành giả luôn theo khuynh hướng “y vũ bất năng khuất”, dù bị cưỡng bức, bị hăm dọa, dù cho cái chết trước mắt, họ cũng không sợ hãi, đầu hàng để rơi vào chủ nghĩa hưởng thụ.

Đối với lòng sân: Họ không bao giờ kích động khi bị người nói xấu, phê bình, chỉ trích, hay nhận định đánh giá không thiện chí. Đức Thế Tôn quan niệm rằng “không có chỗ để nhận những phần quà của lòng sân, thì người mang quà đến tặng phải tự đem về”. Vẻ thản nhiên, dửng dưng, không phản ứng sẽ làm đối phương cụt hứng. Nổi nóng là tự rơi vào bẫy. Càng thể hiện sự giận dữ là càng sai lầm.

Đối với lòng si: Hành giả có khuynh hướng sáng suốt trong mọi nhận định đánh giá để giải quyết vấn đề. Vấn đề khi giải quyết không bao giờ kéo theo sự nuối tiếc, thất vọng, vì nó đều mang lại kết quả như ý. Đức Phật nói, bên cạnh những hạt giống như là tiềm năng về điều thiện, điều tốt, điều tăng ích, họ còn có những sở trường về các ngành nghề trong xã hội, có nhiều năng lực đặc biệt mà không cần phải vất vả như những người khác. Họ học một hiểu mười, thậm chí là không học vẫn hiểu, nhưng họ không thỏa mãn và dừng lại ở những thành quả đó mà nỗ lực học thêm, học mãi.

Đối với những vị tu tập, ngoài những khuynh hướng thiện ích về đời sống tâm linh, họ còn có khuynh hướng nỗ lực lìa và buông xả tất cả các hoạt động tính dục và những khuynh hướng hưởng thụ dục. Họ thường không bao giờ rơi vào khuynh hướng làm điều xấu, điều tội lỗi, dù bị cưỡng bức hay cám dỗ. Họ tu tập về thiền, dấn thân hành trì chuyển hóa cảm xúc để làm cho các thú vui không ảnh hưởng. Họ có thể lắng tâm vào niềm vui của chánh pháp, niềm vui của thiền định, niềm vui của hành trì, niềm vui chuyển hóa, niềm vui của từ thiện, niềm vui của dấn thân phục vụ. Nói chung là thay thế bản tính của niềm vui đó bằng những niềm vui cao thượng hơn, có ý nghĩa hơn để những sự hưởng thụ thông thường không còn dịp chinh phục. Cuối cùng, khi đạt được trạng thái thiền, vắng bặt mọi ý niệm của “khổ và vui”, không còn những loạn và động trước mọi tình huống khác nhau, họ thản nhiên, vô tư và không còn chao đảo với mọi biến cố thịnh suy, thành bại, hơn thua của cuộc đời. Đạt được trạng thái như vậy, giá trị của an vui hạnh phúc sẽ có mặt. Cho nên, là những người đã có năng lực tích cực, việc tu tập sẽ có kết quả lâu dài hơn.

Nhiều người khi được khuyến khích xuất gia lại phân vân không biết mình có căn tu hay không. Nghĩ rằng có căn mới đi tu sẽ không bao giờ tu được. Có căn nghĩa là có gốc rễ, có hạt giống, có tiềm năng, có năng khiếu, tu sẽ dễ. Nhưng người chưa có căn dĩ nhiên nếu nỗ lực vẫn đạt được kết quả tương đương. Quan niệm sai lầm rằng “phải có căn mới tu” nên khi tu tập gặp những khó khăn, người ta dễ dàng quy kết vì không có căn tu. Thay vì nỗ lực để thành công, họ chọn giải pháp ra đời. Thực tế phần lớn người xuất gia ở tuổi thanh niên có kiến thức, trình độ, nghề nghiệp lương bổng ổn định, nhưng không màng đến, họ phát tâm xuất gia và tu bền, làm nhiều Phật sự hơn những vị xuất gia từ bé, chưa biết gì về thế gian. Vì khi xuất gia ở tuổi thanh niên, họ đi bằng lý tưởng, bằng nhận thức sáng suốt, đi bằng ý thức tự giác, do đó khi đã không màng những cám dỗ thế gian thì sự nỗ lực tu tập của họ đạt mức độ cao hơn. Đối với những vị xuất gia ở tuổi ấu niên, dĩ nhiên cơ hội làm điều xấu không nhiều, vì sống trong chùa từ nhỏ, nhưng nhờ căn ở đời trước là một tu sĩ nên họ có mặt trên cuộc đời tiếp tục với hình thức một tu sĩ. Hạt giống đó cứ bình bình và kéo dài, họ trở thành những người hiền lành, đạo mạo trong tu tập, nhưng những đóng góp hiếm khi xuất chúng. Hòa thượng Thiện Hoa tu từ nhỏ, ba tuổi đã vào chùa, sau này ngài trở thành vị đại sư trong phong trào chấn hưng Phật giáo. Hiếm tìm thấy một vị tương tự.

Như vậy, ở hiện tại gieo trồng những hạt giống tốt thì đời sau sẽ có những kết quả an lành. Ở hiện tại đã có sẵn những tiềm năng tốt, cũng không nên cảm thấy hài lòng, hãy nỗ lực phát triển nhiều hơn để kết quả tốt ngày càng gia tăng.

Trong tình huống thứ ba và tình huống thứ tư, gián tiếp giải thích cho câu hỏi “Tại sao suốt cuộc đời làm lành mà cuộc đời lại gặp quá nhiều gian truân thử thách?”. Sự phân tích về bốn tình huống nhân quả: “Hiện tại vui, đời sau khổ”, “Hiện tại khổ, đời sau vui”, “Hiện tại khổ, đời sau khổ”, “Hiện tại vui, đời sau vui”, cho thấy rằng mọi thứ khổ và vui, hạnh phúc và bất hạnh đều thuộc vào nỗ lực của từng cá nhân. Hay nói cách khác, bản chất của nhân quả lệ thuộc vào hành vi của mỗi con người. Không có Thần linh, Thượng đế nào có thể chứng giám, can thiệp. Mỗi người định đoạt, phác thảo, đạo diễn và gánh lấy. Kinh Địa Tạng, đức Phật nói dẫu cho là thân thuộc với nhau như cha mẹ có muốn chịu khổ cho con cái thì cũng không thể nào chịu khổ cho nhau. Bản chất của nhân quả là vậy. Bài kinh mặc dù rất ngắn, nhưng nêu rõ cái nhìn và niềm tin bất thoái về nhân quả, làm cho hành giả không bao giờ có những hoài nghi về những việc làm tốt hoặc hậu quả xấu của một việc làm không lành ở hiện tại. Tất cả đều có tuổi thọ ngắn và dài, lệ thuộc rất nhiều vào yếu tố của duyên.


Trích sách "Hạnh phúc giữa đời thường" - TT. Thích Nhật Từ

Các tin tức khác

Back to top