Ngài là một vị võ quan vô địch, đánh trận nào thắng trận nấy. Theo ngọn cờ lẫm liệt của Hưng Đạo Đại Vương, Ngài đã hai phen đánh bại quân Nguyên đem binh xâm lấn, thâu được nhiều chiến công hiển hách. Đại Vương sắc phong cho Ngài chức Tiết Độ Sứ tại trại Thái Bình. Giữ chức vụ này, Ngài đem hết khả năng an bang tế thế, làm cho mọi người đều kính phục Ngài. Trần Quốc Toản chí khí hiên ngang, tài trí cao cường, tinh thần bất khuất. Nhờ căn lành nhiều đời, Ngài mộ đạo và thích học hỏi Phật pháp từ thuở bé. Duyên lành đưa đến, một hôm đến thăm Tiêu Giáo thiền sư, đệ tử của Ứng Vương vị Thiền sư cuối cùng của phái Vô Ngôn Thông.
Tuệ Trung Thượng sĩ nghe thuyết pháp rồi ngộ đạo, Ngài nhận rõ nhân sinh thống khổ, thế cuộc vô thường. Ngài liền xa lánh cảnh trần, dứt trừ ngũ dục lạc, chuyên tâm nghe pháp tu học chánh đạo. Ngài xin từ chức rồi trở về quê quán, cư trú tại Phong ấp là chốn Vạn niên Hương. Thường trú tại đây, Ngài kiến đàn giảng giải kinh pháp, thập phương, tăng chúng đến thọ giáo và nghe Ngài giảng đạo rất đông. Mặc dù quyền cao chức trọng, nhưng Ngài rất bình dân, đối đãi với mọi người đều bình đẳng, không phân biệt giai cấp. Vì thế mỗi khi Ngài đăng đàn thuyết pháp, thiện nam tín nữ đến dự thính đông vô số, vì cảm phục lòng quảng đại của Ngài.
Một hôm, hàng đệ tử hỏi Ngài về vấn đề sanh tử đại sự, tấn tốc vô thường Ngài hoan hỷ giải đáp bằng hai câu:
Trường không túng sử dong phi cốc,
Cự hải hà phòng nhứt điểm âu.
Dịch:
Ngại gì bọt nước sôi ngoài bể,
Phỏng có vành xe liệng giữa trời.
Nhận thấy Ngài đạo cao đức trọng, văn võ kiêm toàn, nên vua Thánh Tôn hết sức cảm mến và kính trọng Ngài. Đức Vua đặt hết tin tưởng vào sự hướng dẫn đất nước của Ngài trong tương lai. Hoàng đế ban cho Ngài mỹ hiệu đặc biệt là “ Tuệ trung Thượng Sĩ”, để Ngài có đủ thẩm quyền lo việc quốc gia và gởi gấm vua Trần Nhân Tôn để Ngài chỉ dạy mọi phương thức xử thế và lãnh đạo quốc gia dân tộc. Ngài tận tâm, tận lực chỉ dạy Nhân Tôn về mọi phương diện nhất là về phần đạo lý, Ngài giảng giải cho vua Nhân Tôn rõ về ý nghĩa Tam qui, ngũ giới, về định luật Nhân quả, luân hồi, cũng như về toàn bộ Ngũ thừa Phật giáo6. Vua Nhân Tôn rất hoan hỷ khi hiểu rõ được giáo lý căn bản của Đức Phật. Nhiều khi trong nước có giặc giả làm rối loạn, Ngài đem tài thao lược giúp vua một cách đắc lực. Nhờ đó can qua chấm dứt, dân chúng được hưởng thái bình an lạc và Phật giáo cũng được trùng hưng một cách tốt đẹp.
Tuệ Trung Thượng Sĩ có nhiều điểm đặc biệt khác thường, Ngài thực hành giáo lý đại thừa một cách siêu đẳng, làm cho người đời không khỏi lấy làm lạ. Một hôm, em gái Ngài là Khâm Từ Hoàng Hậu mở tiệc để khoản đãi Ngài và bách quan văn võ. Bữa tiệc gồm đủ các thức ăn chay và mặn…Ngài ăn uống tự nhiên không kiêng cử gì cả. Hoàng hậu và mọi người có mặt đều kinh ngạc hỏi Ngài:
-Ngài là người tu hành phải trường trai giữ giới, tại sao lại dùng thức ăn huyết nhục, như thế làm sao thành Phật được?
Tuệ Trung Thượng Sĩ cười nói:
-Phật là Phật, còn tôi là tôi. Tôi chẳng muốn thành ra Phật, chắc chắn Phật cũng chẳng muốn thành ra tôi. Quí vị há không nghe các vị tổ sư nói: “ Văn Thù là Văn Thù, mà giải thoát là giải thoát đó sao?”
Đại thừa Phật giáo qua sự tu chứng của Ngài thật là giải thoát, phóng khoáng, không còn cố chấp hẹp hòi, dứt hết phiền trược, diệt trừ nhân, ngã, bỉ thử, không hệ lụy hình thức, xả bỏ tất cả. Nhưng điểm này, người tu phải lưu ý tối đa, chớ nên lầm lẫn sự vô chấp của các Ngài đã siêu thoát (làm mà không thấy mình làm, tu mà không thấy mình tu, chứng mà chẳng thấy mình chứng, tự tại vô ngại), với sự buông lung, phá giới. Người tu hành khi chưa chứng ngộ thật sự phải hết sức cẩn thận giữ gìn giới đức thanh tịnh làm căn bản.
Suốt cuộc đời hành đạo, Ngài thường làm nhiều việc lạ thường làm cho Đại chúng đều kinh hãi. Cho đến phút sắp viên tịch, Ngài vẫn tự nhiên dạy đời. Ngài bảo mang một chiếc ghế để giữa căn nhà trống, Ngài mặc y phục thường ngồi tựa ghế, giảng nói những lời không không, làm không ai hiểu được Ngài muốn nói gì, rồi Ngài bỗng nhắm mắt thị tịch. Mọi người xúc động khóc than thê thảm,Ngài liền mở mắt quở trách rằng:
-Sanh tử là việc thường ,có sanh phải có diệt, có hiệp phải có ly, có đến phải có đi, có gì đáng mà làm rối loạn ta như thế?
Mọi người đều thức tỉnh, yên lặng không dám khóc nữa, Ngài ngồi kiết già (Utkutukàsana), tự nhiên thoát hóa. Ngài hưởng thọ được 62 tuổi.
Vua Trần Nhân Tôn nhớ ơn Ngài tận tâm dạy bảo, nên sắc chỉ một họa sĩ đại tài, họa chân dung Ngài để phụng thờ tại hoàng cung và đem đạo lý của Ngài tuyên dương, truyền bá khắp nơi, rồi lập phái Trúc Lâm truyền trì cho đến ngày nay.
Trích Gương Sáng Người Xưa - Thích Huyền Vi (Tu Viện Quảng Đức)
Các tin tức khác
- Lời Phật Dạy về đạo làm người (25/07/2014 9:46)
- Sự yên lặng của thiền định (24/07/2014 5:39)
- Lời Phật dạy về công ơn cha mẹ (24/07/2014 5:30)
- Phát tâm trường viễn (24/07/2014 5:20)
- Đi từ nhân căn bản (24/07/2014 12:28)
- Thư thiền sư Đại Huệ đáp Triệu Đại Phu (24/07/2014 12:20)
- Vô thường (24/07/2014 12:03)
- Cầu cúng có được chăng? (23/07/2014 11:03)
- Nhân duyên đẹp, xấu, giàu, nghèo, sang, hèn của nữ nhân (23/07/2014 10:37)
- Thiền sư Bá Trượng (Hoài Hải) (23/07/2014 1:15)