Những lúc không tỉnh, bỏ quên chìa khóa, chúng ta muốn vô nhà vô không được, lang thang như những kẻ không nhà, khổ ơi là khổ. Lúc bấy giờ muốn làm gì cũng không được, hoàn toàn mất hết chủ quyền. Có những người tu hành nhiều năm, học Phật nhiều năm nhưng vẫn không có kết quả gì. Đó là tình trạng bỏ quên chìa khóa, lang thang ngoài đường gặp cái gì vớ được thì vớ, mất hết định hướng ban đầu, dần dần loạn tâm, không còn tu tập theo chánh pháp nữa. Người có trí khi nghe ai nói điều gì cũng suy nghĩ xem đúng không, không phải nghe liền tin, tin rồi chạy theo.
Từ tỉnh có định, từ định có tuệ. Cho nên thiếu tỉnh thì không có định tuệ. Không có định tuệ giống như lục bình ngược xuôi trôi giạt theo con nước, bến đỗ ở đâu không biết. Người tu thiếu định tuệ dễ lâm vấp vào tình huống: Một là bị hủy diệt giữa giòng đời. Hai là tấp bờ bên này. Ba là tấp bờ bên kia. Bốn là bị những lực khác đẩy trôi giạt, không thực hiện được mục đích của mình, như trường hợp bị người ta vớt. Như vậy nuôi dưỡng công phu tỉnh giác cũng không phải dễ dàng.
Nếu thiếu tỉnh giác, chúng ta sẽ gây những tác động đến chung quanh, chẳng những mất mình, mà còn làm xáo trộn, gây ảnh hưởng bất an bất ổn cho mọi người nữa. Ví dụ trong đạo tràng chúng ta có một trăm huynh đệ, chỉ cần một người bất tỉnh thôi là huynh đệ thất điên bát đảo. Kinh nghiệm ở thiền viện chúng tôi thấy, một trăm mấy chục thầy, trên có Hòa thượng kế đến là các thiện hữu tri thức, Phật tử đàn-na chung quanh như thế, nhưng hôm nào có một người bất an ở đâu chạy tới, nói líu lo đủ thứ chuyện trên đời. Bấy giờ từ nhà khách vô tới chánh điện, mấy thầy kẻ chặn người khuyên mời ra, không được đi lộn xộn nói năng lung tung như thế. Rõ ràng chỉ một người không bình thường làm rộn ràng đến nhiều người.
Cho nên muốn bảo vệ sự tu tập chung của mọi người, trong đó có bản thân mình, mỗi vị phải tỉnh. Tỉnh để đừng phát ra những lời lẽ, đừng nuôi dưỡng những ý nghĩ, hoặc hành động gây ảnh hưởng xấu đối với bạn hữu, với việc tu tập chung. Cho nên tỉnh là một pháp học cốt lõi của người tu. Người không tỉnh thì tu không được, vì cứ dính cái này mắc cái kia. Hòa thượng thường dạy: Nghĩ cái gì, chịu khó tỉnh, nghĩ sai thì đừng nghĩ. Nói cái gì, chịu khó tỉnh, nói sai, nói để được mình mà hại người thì đừng nói. Làm cái gì thương tổn đến người thì đừng làm.
Do đó huynh đệ phải tự kiểm luôn. Kiểm ý nghĩ, lời nói, việc làm, nhớ phải tỉnh. Chúng ta không thể là người bất tỉnh, mà là người tỉnh. Tỉnh để có định, định để có tuệ, định tuệ đầy đủ là người giác ngộ. Giác ngộ đầu tiên trong đạo Phật là thấy được lẽ thực của các pháp. Sở dĩ lâu nay chúng ta vướng mắc, trôi giạt, không giải tỏa được là vì chưa thấy được lẽ thực. Chúng ta còn lầm nhận, còn mê muội nên mới vướng mắc. Bây giờ thấy được lẽ thực rồi không còn vướng mắc nữa. Giống như người biết phân biệt vàng giả vàng thật, sẽ không mua nhằm vàng giả nữa, dù người ta có đánh bóng tới đâu, đẹp cỡ nào, họ cũng không lầm.
Một khi chúng ta biết được tận căn để các pháp không thật rồi thì giải thoát tức thì. Cho nên nói thiếu tỉnh khó mà giải thoát. Muốn giải thoát phải tỉnh. Quý vị muốn giải thoát, muốn bình yên, nên tỉnh táo sắp đặt mọi việc theo trí tuệ nhận biết các pháp không thật, sẽ thấy mọi việc nhẹ nhàng an ổn. Hôm nào không tỉnh sẽ làm đảo lộn hết mọi sinh hoạt. Ví dụ như sáng phải ăn chút gì đó mới đi làm, sáng người ta chưa ăn mà mình bảo đi làm thì người ta không chịu đâu. Cho nên sắp đặt việc, phải tỉnh sắp đặt mới đúng.
Chính các vị đại đệ tử của đức Thế Tôn đôi khi cũng sắp đặt không ổn. Trong kinh A-hàm kể lại, có vị cư sĩ được tôn giả A-nan dạy tu, ông tu một thời gian đến thưa với Phật: Bạch đức Thế Tôn con tu không được, nay xin hoàn tục. Phật hỏi: Ông làm nghề gì? Thưa: Con làm nghề thợ rèn. Phật hỏi: Thầy ông dạy tu ra sao? Thầy dạy con quán bất tịnh. Đức Thế Tôn kêu A-nan lại bảo: Sao ông dạy như thế? Thợ rèn phải dạy đếm hơi thở mới thành công. Thế là nhờ đức Phật dạy lại pháp quán sổ tức, người thợ rèn tu chẳng bao lâu liền chứng quả A-la-hán. Một chút như thế thôi mà đảo lộn tất cả.
Sau khi khắc tỉnh rồi, chúng ta phải tu. Tu là sửa, thấy đến nơi đến chốn mọi sai lầm của mình trước kia thì phải sửa. Khi mình đã có nội tại vững, thì cái nhìn đúng đắn. Cho nên các bậc tôn túc tu tập nhuần nhuyễn, nói điều gì, sắp đặt việc gì đều thành tựu. Nói đến tu là nói đến sửa, những gì còn cù cặn phải thẩy bỏ. Trong giai đoạn mình đang dụng công, phải tích cực ứng dụng giáo pháp đã học, tu sửa và sống cho được với điều Phật tổ dạy. Nói và làm thống nhất, như vậy mới đúng tinh thần nhà thiền. Người nói thiền thế này, thế kia, siêu xuất, đặc biệt… mà bản thân không sửa đổi, không áp dụng được, đó chỉ là nói suông cho vui, không có lợi lạc, không có giá trị gì hết.
Khi công phu cần đến sự quyết tâm của hành giả đối với pháp tu. Ở đây, chúng ta tu thiền. Giả dụ có ai hỏi quý vị hành thiền như thế nào? Chúng ta không thể giải thích: Hành thiền là mỗi tháng đến đạo tràng bao nhiêu lần, ngồi thiền bao nhiêu lần… Không phải như thế, mà phải tỉnh, phải có trí tuệ, phải thể hiện cuộc sống an lạc, thảnh thơi, không vướng mắc, không phiền hận, không lăng xăng phân biệt hơn thua, được mất, thương ghét… Do đó các thiền sư khi được hỏi thiền, các ngài vỗ vào miệng mình. Xử sự như thế mới đúng tinh thần nhà thiền.
Hồi xưa các thiền sư thăng toà nêu lên đề mục nào đó, mỗi vị trong hội chúng trình bày chỗ nhận của mình. Đúng thì Hòa thượng gật đầu, chưa đúng Hòa thượng khai thông cho mình. Ngày nay, chúng tôi ở thiền viện cũng được Hòa thượng hỏi: Lâu nay tu ra sao, nói nghe coi. Thầy nào lạng quạng là Hòa thượng biết ngay vô cửa chưa được. Hoặc nói bắn bổng trên mây xanh liền bị ngài quở, phải xem xét lại công phu cho chín chắn. Chúng ta phát tâm tu là một việc rất tốt, không nên tự dối, nói điều gì với thầy tổ cũng bằng tâm chân thực, như vậy sẽ có lợi ích cho việc tu tập của mình. Thấy như thế, tu như thế, nói như thế, cứ trình bày như thế. Điều gì không đúng, thầy sẽ hướng dẫn lại. Vừa nói ra trật rồi thì đừng cố nói nữa. Đó là người biết tu sửa.
Chúng ta tu thiền, chắc chắn không áp dụng điều gì khác ngoài đường lối đã học, nhất định thành quả lợi lạc sẽ đến với mình. Thành quả đó là gì? Nhiều vị cho rằng thành quả là Niết-bàn hay gì gì đó. Thưa, không phải vậy. Hồi trước chúng ta chưa biết Phật pháp, chưa đủ duyên gặp gỡ huynh đệ, cùng chung sinh hoạt trong đạo tràng, mỗi lần có sự cố gì xảy ra trong cuộc đời, như bị người mạ nhục, quý vị thấy tối tăm mày mặt, thấy ngạt thở, tức giận không còn tự chủ được nữa v.v… Lúc chưa biết Phật pháp, rơi vào tình trạng như vậy không có gì đáng trách. Nhưng kể từ khi gặp Phật pháp, sinh hoạt đạo tràng rồi, áp dụng lời Phật, gặp những tình huống như thế quý vị nuôi dưỡng phiền não là sai bét, đáng trách. Đối diện với các cảnh duyên ấy không phải mình đóng tai, bịt mũi, mà vẫn nghe rõ ràng, thấy rõ ràng, cảm giác rõ ràng, không có gì khuất lấp cả, nhưng mình bình thường, thấy không có vấn đề gì cả. Mình còn biết rõ đây là nhân duyên quả báo chiêu cảm mà nên. Nhờ thế quý vị đầy đủ tinh thần vượt qua các nghịch cảnh dễ dàng. Đó chính là thành quả của chúng ta.
Trong kinh A-hàm kể lại, một buổi sáng đức Phật đi khất thực, hai thầy trò vị Phạm chí đi phía sau, người đệ tử khen Phật từ bước đi cho đến dáng đứng, cái gì cũng khen, còn ông thầy thì mạ lị hết lời. Phật bảo lời khen ấy cũng không dính dáng tới Như Lai, lời mạ lị kia cũng không dính dáng tới Như Lai. Nếu nói theo nhà thiền là không can hệ gì đến ta. Kết quả của tu thiền là tám gió thổi không động. Tám gió là lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc, chúng thổi ta không động mới thật sự an nhiên tự do tự tại, tự làm chủ hoàn toàn. Chúng ta là thiền sinh ít ra năm ba thứ gió thổi không lay động mới được chứ! Chẳng lẽ bao nhiêu năm tu tập mà bị thổi tróc hết sao? Được người công kênh cũng không mừng. Bị người khinh chê cũng không buồn. Như vậy không phải thích thú lắm sao, do đâu phải ôm ấp phiền não?
Chúng ta tự chiêm nghiệm về công phu tu hành hằng ngày của mình, biết điểm nào còn yếu, cố gắng chấn chỉnh thêm lên, chỗ nào đã vững cố gắng phát huy. Chỗ tu hành cần phải được thể nghiệm hằng ngày, ngay cả trong mọi sinh hoạt bình thường của chúng ta. Đụng việc nổi đóa lên, bất như ý một chút la om sòm, thì còn gì người tu nữa. Cho nên chúng ta nỗ lực, khắc phục, khắc tỉnh, tự nguyện áp dụng lời Phật dạy vào đời tu của mình cho được lợi lạc.
Chúng ta càng tu tập, trí tuệ càng phát huy, càng viên mãn. Đó là điều chắc chắn không nghi. Kính chúc quý pháp hữu luôn phát huy được trí tuệ để chúng ta đi đến toàn giác, lợi lạc quần sanh, báo ân Phật tổ.
Trích bài viết Nhìn Lại Mình - HT. Thích Nhật Quang
Các tin tức khác
- Quán xét khổ đau ( 3/04/2016 11:29)
- Đều là phàm phu ( 3/04/2016 10:37)
- Chẳng thể được ( 2/04/2016 6:12)
- Bệnh chấp thật ( 2/04/2016 6:04)
- Niệm người chi bằng niệm Phật ( 1/04/2016 10:47)
- Ta mỗi ngày ba lần tự răn nhắc mình ( 1/04/2016 1:42)
- Cùng thực tập Phật pháp để gia đình được hạnh phúc ( 1/04/2016 1:27)
- Nhẫn nại dưới hình thức quyết tâm suy nghĩ về Chánh pháp ( 1/04/2016 1:11)
- Làm điều mà người khác không muốn làm (30/03/2016 11:38)
- Thực hành nhẫn nại (29/03/2016 11:01)