Lý do phân chia việc luyện tập thành ba giai đoạn là: Nếu muốn cho trí tuệ của sự quán thấy đặc thù (special penetration / vipassana) có thể loại bỏ được các thứ chướng ngại hầu mang lại cho mình một sự hiểu biết đích thật, giúp mình loại bỏ các thể dạng tâm thần sai lầm từ căn bản (chẳng hạn như xem các hiện tượng là thật và trường tồn, xem mình là trung tâm của vũ trụ, xem cái "ngã" là chính mình, v.v.) thì phải cần đến phép thiền định tập trung, có nghĩa là phải phát huy một thể dạng quyết tâm tuyệt đối, loại bỏ được tất cả mọi sự xao lãng trong nội tâm mình. Nếu không thì tâm thức sẽ bị vỡ ra từng mảnh vụn. Nếu không thực hiện được thể dạng thiền định tập trung thật cao độ thì trí tuệ sẽ èo uột. Cũng thế, khả năng soi sáng của một ngọn nến trước một cơn gió sẽ bị kém đi. Vì thế phải thực hiện được thể dạng thiền định tập trung trước khi có thể phát huy trí tuệ. Thể dạng thiền định chú tâm đó sẽ giúp loại bỏ các sự xao lãng tinh tế bên trong nội tâm (các tư duy và xúc cảm - thường là khổ đau - thật sâu kín và khó nhận biết, nếu không suy tư và thiền định thì khó có thể ý thức được sự hiện diện của chúng trong tâm thức mình), và cả các thể dạng tâm thần quá buông thả hay quá căng thẳng.
Nếu muốn thành công trong việc tập trung tâm thần đó thì chúng ta phải loại bỏ những sự xao lãng bên ngoài, bằng cách phát huy thể dạng tỉnh giác của tâm thức (mindfulness / pleine conscience) đối với các sinh hoạt thân xác và ngôn từ. Đấy là cách phải thường xuyên ý thức về tất cả các sự sinh hoạt của mình từ thân xác đến từng lời ăn tiếng nói. Nếu không loại trừ được các sự xao lãng ấy thì cũng sẽ khó lòng cho chúng ta vượt lên trên các sự xao lãng tinh tế hơn (tức là các sự xao lãng sâu kín trong nội tâm mình, chẳng hạn như các sự hoang mang, thèm muốn, ước mơ, hy vọng..., là các thứ khích động và thúc dục bản năng rất "tự nhiên" của sự sống). Tạo ra một tâm thức tỉnh giác (mindfulness/tâm linh tỉnh thức) là cách mang lại cho mình sự tĩnh lặng tâm thần (tức là thể dạng vắng lặng và thăng bằng của tâm thức còn gọi là định /samadhi - đã được nói đến trên đây). Cần phải phát huy một tâm thức đạo đức trước khi nghĩ đến việc thiền định tập trung (thật hết sức hiển nhiên: một tâm thần xao động chi phối bởi hận thù, hung dữ, mưu mô, lừa lọc, dối trá, xảo quyệt, oán hận, thù hằn, tiếc nuối, thích giết chóc, say mê của cải,...sẽ không sao thực hiện được một sự chú tâm cao độ, hầu có thể mang lại cho mình một thể dạng tâm thức tĩnh lặng và trong sáng).
Theo kinh nghiệm của tôi thì cuộc sống xuất gia nơi chốn chùa chiền sẽ giúp mình tránh bớt được các sự trói buộc và sinh hoạt bên ngoài, điều ấy có nghĩa là tôi có nhiều thì giờ hơn để tập trung vào việc tìm hiểu các vấn đề tâm linh. Lời nguyện quyết tâm giới hạn bớt các sự sinh hoạt vô bổ thuộc thân xác và ngôn từ (trong lúc chúng ta giải trí, tập thể dục thẩm mỹ, trang điểm thân xác, hát karaoké, bàn cãi đủ mọi chuyện, hoặc ăn nói huyên thiên..., thì người tu hành ngồi xuống thật yên lặng để tìm hiểu tâm thức mình hầu giúp mình trở về với con người đích thật của chính mình. Hai phương pháp tiếp cận sự sống khác nhau tất sẽ phải mang lại các kết quả khác nhau) là cách giúp tôi ý thức được cung cách hành xử của tôi, và thôi thúc tôi phải quán xét những gì xảy ra trong tâm thức tôi. Dù không hề quan tâm đến việc thiền định chú tâm đi nữa thì ít ra tôi cũng phải canh chừng tâm thức tôi, hầu giúp nó không bị rơi vào sự xao lãng (trong cuộc sống thường nhật, chúng ta phải thực hiện một sự chú tâm tối thiểu nào đó thì mới có thể giúp mình đối đầu với một số khó khăn, chẳng hạn như tránh bớt được tai nạn và rủi ro, không ăn nói lỡ lời, không gây lầm lẫn và sai trái cho mình và kẻ khác. Một người tu tập dù còn ở một cấp bậc thấp cũng có thể phát huy được một sự chú tâm cao hơn, mang lại cho mình những sự nhận xét minh bạch và sáng suốt, và tạo ra cho mình một cung cách hành xử đúng đắn hơn. Một người tu tập cao thâm phát huy được một sự tập trung tâm thần cao độ sẽ giúp mình quán thấy được sự vận hành sâu kín của tri thức mình cũng như các tác động của nghiệp đang chi phối sự suy nghĩ và các hành động của mình; đối với bối cảnh bên ngoài thì mình quán thấy được bản chất đích thật của mọi hiện tượng và sự vận hành của thế giới. Tất cả những sự quán thấy ấy có thể khiến mình bất thần cảm thấy đã loại bỏ được các thể dạng vô minh trong tâm thức mình trước đây. Sự cảm thấy đột ngột đó còn được gọi là sự giải thoát hay giác ngộ). Vì thế trước đây lúc nào tôi cũng chú tâm vảo việc luyện tập phép thiền định tập trung tâm thức hướng vào một điểm. Và các lời nguyện giữ gìn đạo đức thì làm căn bản cho cuộc sống của tôi (nay Ngài đã đạt được Giác Ngộ, đạo đức và sự chú tâm đã trở thành các phẩm tính tự nhiên của Ngài). Nếu phân tích ba phép luyện tập trên đây - đạo đức, thiền định chú tâm và trí tuệ - thì chúng ta sẽ nhận thấy mỗi phép luyện tập đều là một cơ sở tất yếu giúp thực thi phép luyện tập tiếp theo. Sự tuần tự giữa ba phép luyện tập ấy nói lên cuộc sống của chính Đức Phật. Tóm lại bất cứ một sự thăng tiến tâm linh nào cũng đều phải dựa vào một cơ sở đạo đức chính xác.
Trích Muốn tu tập thì phải làm thế nào: Có ba cách tu tập
Đức Đạt-lai Lạt-ma
Bures-Sur-Yvette, 28.10.15
Hoang Phong chuyển ngữ
Các tin tức khác
- Lời nguyện trước 4 vị đại Bồ Tát ( 9/05/2016 11:15)
- Tu cái miệng! Cái miệng ăn nói nghiệt ngã bao nhiêu thì vận mệnh nghiệt ngã bấy nhiêu! ( 9/05/2016 10:37)
- Phật dạy 4 nguyên tắc để giải thoát sự nghèo khổ ( 8/05/2016 11:30)
- Học cách lắng nghe ( 8/05/2016 11:15)
- Bệnh tri giải - Thiền nói ( 8/05/2016 2:42)
- Quan niệm về đạo đức nghề nghiệp lành mạnh ( 8/05/2016 2:00)
- Bí thư Đinh La Thăng có nói về ngũ giới nhà Phật? ( 6/05/2016 7:01)
- Tự thu nhỏ mình lại ( 6/05/2016 6:50)
- Hư và thực ( 6/05/2016 6:42)
- Không thể nghĩ bàn ( 6/05/2016 6:38)