Bạn đã dùng thuốc Đông Y đúng cách ?

6/06/2017 12:57
Người xưa cho rằng : Thuốc có công hiệu hay không một phần quan trọng là do cách sắc thuốc và uống thuốc.

Cách sắc thuốc

Để nâng cao hiệu quả và tác dụng của thuốc cần sắc thuốc đúng cách trên cơ sở khoa học như sau:

Ấm sắc thuốc: Nên dùng ấm bằng đất nung hoặc bằng sứ, không nên dùng ấm bằng kim loại kể cả nhôm để sắc thuốc bởi vì trong các vị thuốc có rất nhiều các hoạt chất hữu cơ dễ bị kim loại phân hủy đặc biệt là tanin, sẽ làm biến đổi các hoạt chất của thuốc, đôi khi còn có thể gây độc ảnh hưởng đến sức khỏe người dùng thuốc.

Nước sắc thuốc: Dùng nước sạch để sắc thuốc .Lượng nước sử dụng để sắc thuốc tùy theo lượng thuốc nhiều hay ít mà đổ nước cho vừa phải. Theo kinh nghiệm nên đổ nước ngập thuốc chừng 2 đốt ngón tay là vừa đối với lần đầu; những lần sắc sau thì nên đổ ít hơn lần trước một chút.

Cách sắc thuốc: Trước khi sắc thuốc, nên rửa sạch thuốc để loại bỏ tạp chất, bụi bẩn, chất bảo quản. Sau đó ngâm thuốc vào nước ấm hoặc nước lã sạch 15-30 phút, để tạo điều kiện cho các hoạt chất tách ra được dễ dàng và rút ngắn được thời gian sắc thuốc.

Nếu là thuốc bổ nên sắc 3 lần, dùng lửa nhỏ sắc lâu. Mỗi lần sắc từ 60-90 phút.

Nếu là các loại thuốc có tính phát tán, công hạ dùng chữa bệnh ngoại cảm, phong tà nên sắc 2 lần, dùng lửa lớn và sắc nhanh trong khoảng 10-20 phút. Cần lưu ý có một số vị thuốc có cách sắc khác nhau: các thuốc là khoáng vật cần sắc trước, các thuốc có nhiều tinh dầu như gừng, bạc hà, tía tô... nên cho sau khi thuốc đã sắc gần xong. Một số thuốc quý như nhân sâm, linh chi, sừng tê giác... cần sắc riêng rồi phối hợp vào nước thuốc đã sắc. Các loại cao thuốc, a giao, mật ong... sau khi chắt nước thuốc hòa với các vị trên uống khi còn nóng.

Mỗi bài thuốc, vị thuốc có cách sắc khác nhau. Do vậy cần thực hiện cách sắc thuốc theo đúng chỉ dẫn của thầy thuốc, lương y.

-Cách uống thuốc
Uống thuốc vào thời điểm nào, mỗi lần uống bao nhiêu, uống làm bao nhiêu lần... cũng có ảnh hưởng nhất định đến hiệu quả của thuốc. Vì vậy khi uống thuốc Đông y cần lưu ý một số điểm như sau:

-Thời gian uống thuốc:
Uống trước khi ăn: Thường dùng cho các loại bệnh ở trung hạ tiêu (như gan thận hư tổn hoặc những bệnh có vị trí phía dưới như các bệnh từ eo lưng trở xuống và các bệnh về đường ruột).Vì lúc này, dạ dày đang rỗng, thuốc tiếp xúc chủ yếu với niêm mạc đường tiêu hóa sẽ hấp thu nhanh và đạt được hiệu quả chữa trị.
Uống sau khi ăn: Thường áp dụng đối với nhưng loại thuốc có tác dụng kích thích đường tiêu hóa hay những loại thuốc trị bệnh có vị trí ở vùng thượng tiêu (như bệnh tim, phổi… )Theo các thầy thuốc Đông y, đây là những loại thuốc có dược tính mạnh nên cần phải uống sau khi ăn để khỏi bị hấp thu quá nhanh dẫn tới trúng độc.
Uống nguội: Thuốc giải độc, cầm nôn, giải nhiệt đều nên uống nguội. Ví dụ như thuốc chữa trị sốt cao nên để thật nguội hãy uống.
Uống ấm: Những loại thuốc có tính bồi bổ thường có vị ôn hòa nên thường được chỉ định dùng khi ấm nhằm tăng cường tác dụng bổ khí và bổ dưỡng. Với thuốc bổ, sắc xong để nguội khoảng 35% thì uống là vừa.
Uống nóng: Thuốc trúng gió, cảm cúm, giải độc trừ hòa, nên uống lúc còn nóng để cho ra mồ hôi. Khi cần loại trừ hàn, tăng cường thông huyết mạnh, thường được chỉ định uống lúc nóng để phát huy hết tác dụng của thuốc.
Uống hết ngay một lần: Những loại thuốc mạnh liều lượng ít được sử dụng để uống một lần cho hết nhằm tập trung sức mạnh của thuốc, phát huy hiệu quả tối đa như thuốc thông đại tiểu tiện, tan máu ứ…
Uống nhiều lần: Những người bị bệnh về yết hầu, hay nôn mửa, cần uống thuốc làm nhiều lần và từ từ để thuốc có thời gian ngấm vào cơ thể và dạ dày.
Uống khi đói: Thuốc bổ cũng được khuyên dùng nên uống vào buổi sáng, lúc bụng đói để hấp thu được hết.
Uống trước khi ngủ: Thuốc an thần gây ngủ vì thế uống trước khi ngủ khoảng 30 phút sẽ giúp thuốc phát huy hiệu quả cao nhất. Bên cạnh đó, người mắc bệnh tích trệ, đau ngực sau khi uống thuốc nên nằm ngửa; người mắc bệnh ở đầu, não, tai, mắt, sau khi uống thuốc nên tĩnh dưỡng tại chỗ. Đối với người mắc bệnh đau hai bên suờn sau khi uống thuốc nên nằm nghiêng.
Uống cách nhật: Thường sử dụng đối với các loại thuốc tẩy giun sán. Trước khi đi ngủ uống một lần, sáng hôm sau uống một lần nữa khi bụng đói để giun sán bị tiêu diệt và dễ bài tiết ra ngoài.

- Thuốc thang thì nên trộn đều các lần sắc với nhau và chia đều uống trong 1 ngày, uống khi thuốc còn ấm. Nếu là thuốc giải cảm khi uống xong cần phải tránh gió và đắp chăn cho ra mồ hôi vừa để đuổi tà khí.

- Nếu đã dùng thuốc đúng bệnh, uống thuốc rồi nhưng vẫn bị nôn thì nên giảm lượng thuốc uống hoặc thêm 3 lát gừng sống cho vào thuốc sắc hoặc là nhấm 1 lát gừng tươi trước khi uống thuốc.

- Uống thuốc thấy bị đi lỏng, phân nát thì phải cho thêm ít gừng nướng, đập dập sắc chung với nước.

- Uống thuốc thấy đi ngoài phân táo cần cho thêm vài ba đốt mía vào sắc chung hoặc cho thêm 1 thìa mật ong vào nước thuốc để uống.

- Đối với người già khi uống thuốc nên dùng lượng nhỏ, chia nhiều lần để thăm dò.

Kiêng kỵ khi uống thuốc

Kiêng kỵ có tác dụng hạn chế những tác dụng không mong muốn của thức ăn, đồ uống đến tác dụng của thuốc và nâng cao hiệu quả dùng thuốc.

Một số loại thực phẩm như đậu xanh, giá đỗ, rau cải xanh giảm mất tác dụng của thuốc vì vậy khi uống thuốc Đông y nên kiêng.

Một số vị thuốc tương kỵ với một số thức ăn như: thuốc có hà thủ ô đỏ kiêng ăn cá không vẩy như lươn, trạch, cá trê... Kiêng thịt chó khi uống thuốc có cát cánh, cam thảo, hoàng liên, ô mai. Kiêng ba ba khi uống thuốc có bạc hà, kiêng dấm khi uống thuốc có phục linh. Kiêng chè khi uống có thổ phục linh. Kiêng thịt lợn khi thuốc có ké đầu ngựa.

- Những người tỳ vị hư hàn hoặc uống thuốc ôn thông kinh lạc, khử hàn trừ thấp, kiện tỳ noãn vị không nên ăn các thức ăn sống lạnh.

- Những người mắc bệnh âm hư hỏa động: Đại nhiệt, háo khát uống nước hoàn dương để dưỡng âm tăng dịch, hoặc thuốc thanh nhiệt lương huyết không được ăn các thức ăn cay nóng.

- Khi uống thuốc không nên ăn thực phẩm có nhiều dầu mỡ, thường trợ thấp sinh đờm, làm giảm quá trình hấp thu của thuốc.

Tóm lại, sử dụng thuốc Đông y vừa phải nắm vững nguyên tắc vừa phải vận dụng linh hoạt cụ thể vào từng bệnh, người bệnh và các vị thuốc mới có tác dụng nâng cao hiệu quả .

 

ST

Các tin tức khác

Back to top