Tuy nhiên, do nghiệp lực thôi thúc hoặc do áp lực của cuộc sống hiện đại, việc gìn giử chánh niệm trong cả bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi thường không dễ dàng. Do đó, hành giả tu trì thiền định cần một số điều kiện trợ duyên nhất định. Bên cạnh việc tuân thủ giới quy và duy trì một chế độ ăn uống, sinh hoạt và giao tiếp thích hợp thì việc dành ra những thời khắc nhất định trong ngày để thực hành tọa thiền với thế ngồi hoa sen (kiết già) cũng đem lại một kết quả tốt cho thân và tâm.
Sự “thường tọa” được khuyến khích trong kinh Thập Nhị Đầu Đà như sau: “Trong bốn uy nghi hàng ngày, ngồi được xem là phương tiện thuận lợi nhất trong các phương pháp tu hành. An uống những vật dễ tiêu hóa, giữ gìn hơi thở đều hòa. Đại sự cầu đạo chưa thành, giặc phiền não thường khuấy động cướp mất tất cả công đức trí tuệ. Đi đứng tâm động khó trừ, nằm hôn trầm dễ khởi. Vì thế người tu hành phải thực hành theo phương pháp thường tọa”. Cụ thể hơn, luận Đại Trí độ, quyển 7 rất tán thành cách ngồi kiết già: “Trong các cách ngồi, phương pháp kiết già phu tọa rất an ổn, vững chắc và ít mệt nhọc. Đó là cách ngồi của người tọa thiền, tay chân nhiếp trì, tâm không tán loạn. Ngồi là món an ổn nhất trong bốn oai nghi cử động hàng ngày. Tọa thiền là cách ngồi để đạt đạo. Ma vương thấy cách ngồi ấy đều sanh tâm lo sợ. Đây là cách ngồi của người xuất gia. Ngồi kiết già phu tọa dưới gốc cây, mọi người trông thấy đều sinh lòng hoan hỷ. Người đạo sĩ ấy nhất định sẽ đắc đạo.”
Về mặt khoa học, những thí nghiệm về yoga (1) cho thấy, chỉ cần ngồi vào tư thế kiết già, dù ta không cố gắng tập trung tư tưởng vẫn có một sự thay dổi sóng não từ nhịp Beta khoảng 20c/s xuống nhịp Alpha khoảng 8c/s. Nhịp Alpha là sóng não của một người đang trầm tĩnh, minh mẫn và có tâm lý ổn định. Điều này có nghĩa là tự thân tư thế kiết già đã có công năng làm êm dịu thần kinh, một yếu tố quan trọng để dẫn dắt người thực tập dễ đi đến tình trạng thư giãn, nhập tĩnh.
Kết quả trên cũng phù hợp với những lý luận và thực tế lâm sàng của y học châm cứu cổ truyền về huyệt “Tam âm giao”. Được biết, khi ở tư thế kiết già xương mắt cá chân sẽ tạo một sức ép khá mạnh lên đúng vị trí huyệt “Tam âm giao” của chân còn lại. Điều này có nghĩa là trong suốt thời gian ngồi kiết già, huyệt “Tam âm giao”liên tục được kích hoạt. Ở những người thường ngồi tư thế này, sức ép tạo ra một dấu ấn trên mặt da tại vùng huyệt trông giống như một vết thương cũ đã lành. Huyệt “Tam âm giao”ở chỗ lõm bờ sau xương chày. Đối với người có tầm vóc trung bình, huyệt ở trên mắt cá chân khoảng 6cm đến 6,5cm. Sở dĩ được gọi là “Tam âm giao”vì huyệt là điểm giao hội của ba đường kinh âm: Túc thái âm Tỳ, Túc thiếu âm Thận và Túc quyết âm Can. Theo quan niệm chỉnh thể của y học phương Đông, một tạng hoặc một phủ nào khi phát sinh bệnh biến sẽ có biểu hiện trên đường tuần hành của đường kinh đi qua nó. Ngược lại, ta cũng có thể thông qua những huyệt vị của đường kinh để điều chỉnh những rối loạn bệnh lý của các tạng phủ bên trong. Ở đây, Can Thận chủ hạ tiêu, Tỳ chủ trung tiêu. Do đó, khi tác động vào huyệt “Tam âm giao”, ta có thể điều chỉnh toàn bộ quá trình chuyển hóa, hấp thu và bài tiết ở khu vực này. Đặc biệt là tác dụng “dưỡng Âm kiện Tỳ” và “sơ tiết Can khí”của huyệt. Tác dụng này giúp tái lập cân bằng nội tiết, nội tạng và điều hòa thần kinh giao cảm. Chính điều này giúp ấn định cả thân và tâm trong quá trình hành thiền.
Việc kích hoạt vào huyệt “Tam âm giao”của tự thể kiết già còn làm sáng tỏ thêm một nghi vấn khác. Đó là ở tư thế này, chân hữu chồng lên chân tả hay ngược lại, chân tả phải chồng lên chân hữu? Trong Tu thiền yếu quyết, ngài Phật Đà Ba Lợi (Buddha Pali) giải thích về kiết già: “Ở Bắc Ấn Độ, kiết già phu tọa là cách ngồi chân tả chồng lên chân hữu và chân hữu tréo lên chân tả”. Tuy nhiên, ở một số kinh tạng khác, chẳng hạn trong Thiêu Thai chỉ quán của ngài Trí Khải Đại sư thì “Kiết già phu tọa là cách ngồi chồng chân hữu lên chân tả và tréo chân tả lên chân hữu”.
Trên thực tế, hệ thống kinh lạc ở hai bên thân thể, bên phải và bên trái có tính tương đồng và đối xứng với nhau. Do đó, dù ngồi cách nào thì một trong hai huyệt hoặc “Tam âm giao”phải hoặc “Tam âm giao”trái sẽ được tác động. Hơn nữa, “Tam âm giao”là một trong số rất ít các huyệt vị có tính tự điều chỉnh rất cao. Dù kích thích vào huyệt theo cách nào, lâu hay mau, bên phải hay bên trái thì hiệu ứng mang lại vẫn là cải thiện, là điều chỉnh để tiến đến hòa hợp và cân bằng. Do đó, tùy theo sở thích hoặc thói quen của mỗi người, cả hai cách ngồi trên đều mang lại kết quả tốt đẹp cho việc hành thiền.
Chú Thích
1. The way of Tantra, Ananda Manga, NXB Manila, Philippines, tr 44.
2. Thí dụ về tính tự điều chỉnh của huyệt: Trong châm cứu hoặc bấm huyệt chữa bệnh, các thầy thuốc có thể áp dụng cùng một hình thức kích thích vào một huyệt “Tam âm giao” để điều trị những triệu chứng khác nhau hoặc thậm chí đối kháng nhau như đau bụng kinh, bế kinh, rong kinh, băng huyết… Chính tính tự điều chỉnh của huyệt sẽ đảm nhận vai trò điều tiết để đạt đến hiệu quả chữa bệnh.
Nguồn: Tạp chí Văn hóa Phật giáo số 23
Các tin tức khác
- Sống chết đường tơ (20/06/2014 10:18)
- Ba con rắn độc (20/06/2014 9:45)
- Sự cần biết về bố thí (20/06/2014 2:01)
- Nghệ thuật ngủ (20/06/2014 1:56)
- Thực hành tâm vị tha (20/06/2014 1:46)
- Cả thế giới ngưỡng mộ vì CĐV Nhật Bản dọn rác sau trận đấu ở World Cup 2014 (18/06/2014 10:47)
- Nhìn sự vật như chúng thật sự là (18/06/2014 10:02)
- Cẩn trọng với lợi dưỡng (18/06/2014 9:51)
- Bài pháp không lời (18/06/2014 1:43)
- Cạm bẫy của giàu sang (18/06/2014 1:27)