Tại sao, giàu có học đạo khó? Người giàu có, luôn bận rộn trong việc kiếm tiền cho nên niềm đam mê của họ giống như chất keo dán sắt dính vào khó gỡ ra. Họ mải mê lo làm giàu, bận rộn trong đời sống đua chen, giành giật và sợ bị mất mát hao hụt nên họ càng bám víu vào đó để giữ gìn.
Trong kinh Phật dạy, quả báo của những kẻ giàu sang, nhờ biết bố thí nhưng không chịu tu học hạnh giác ngộ giải thoát, nên không có trí huệ sau khi thân hoại mạng chung, sẽ có thể tái sinh làm voi, ngựa quý cho nhà vua. Hai loài đó, tuy được trang sức lộng lẫy, để chở nhà vua và hoàng hậu đi đây đó ngắm cảnh xem hoa, vui thú cảnh sông hồ thiên nhiên đẹp đẽ. Chính vì thế, giàu sang mà biết buông xả để học đạo giải thoát quả là một điều rất khó. Cho nên giàu sang mà biết học đạo được liệt vào hàng thứ hai, đối lập với nghèo khổ mà biết bố thí.
Quá giàu và quá nghèo mà làm được việc ân nghĩa là điều hy hữu, hiếm có xưa nay nhưng không phải là không có. Những tấm lòng vàng, những nhà hảo tâm, triệu phú, tỷ phú họ đã từng đóng góp đáng kể vào các dịch vụ từ thiện, xây dựng mở mang cầu đường, chùa to Phật lớn đều là do những người giàu có nhất phát tâm ủng hộ. Và quan trọng hơn hết, ngoài việc bố thí cúng dường giúp đỡ sẻ chia, họ còn biết buông xả những tâm tư chấp trước dính mắc mê muội, nên cuộc sống của họ lúc nào cũng bình yên hạnh phúc.
Giàu như vua Tần Bà Sa La, trưởng giả Cấp Cô Độc ngày xưa khi Phật còn tại thế, họ vừa phát tâm bố thí cúng dường và vừa phát tâm học đạo giải thoát, nên ngày hôm nay chúng ta biết được những tấm gương sáng ngời có cả hai mặt phước báo và trí tuệ. Có phước báo nên giúp được nhiều người, có trí tuệ nên không tham đắm dính mắc vào bất cứ một thứ tài sản sở hữu nào, do đó tâm an nhiên tự tại mà không bị phiền não tham sân si chi phối.
Và để nói lên giá trị của người giàu có nhưng mà vẫn thiết tha học đạo, chúng tôi sẽ kể cho quý vị nghe một câu chuyện thời đức Phật còn tại thế, có một trưởng giả tên là Tu-Đạt nhà giàu nhất nước Kiều-Tát-la do vua Ba-Tư-Nặc trị vì. Một hôm, sau chuyến buôn hàng sang nước Ma-kiệt-đà của vua Tần Bà Sa La, mua bán xong ông trở về nhà người anh rể của mình để nghỉ ngơi.
Thường lệ, khi ông về tới, mọi người trong nhà đều ra trước ngõ đón tiếp ân cần, niềm nở nhưng hôm nay ông thấy không ai quan tâm để ý đến ông cả, thật lạ lùng. Ông lấy làm ngạc nhiên mới hỏi người anh rể, mới biết cả nhà đang bận rộn việc chuẩn bị đồ ăn, thức uống để cúng dường 1250 vị Tỳ-kheo trong Tăng đoàn của đức Phật. Lần đầu tiên nghe đến đức Phật, Tu-Đạt thắc mắc với người anh rể:
Phật là gì mà mọi người phải cung kính, tôn trọng?
Người anh rể bảo rằng:
Đức Phật trước đây là Thái tử Tất-Đạt-Đa, con vua Tịnh-Phạn và Hoàng hậu Ma-Da, ông là người được kế thừa ngôi vua, mà dám từ bỏ ngôi vị, cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con xinh, thần dân thiên hạ để xuất gia tu hành, nay đã thành Phật.
Tu-Đạt nghe qua, bổng cảm thấy trong lòng an ổn lạ thường nên muốn gặp đức Phật liền tức khắc, nhưng lúc này trời tối đành chờ lại sáng mai. Vì khao khát và mong muốn được gặp đức Phật nên suốt cả đêm, ông không sao ngủ được.
Tờ mờ sáng hôm sau, ông đã có mặt tại Tịnh xá Trúc Lâm, nơi đức Phật đang tịnh dưỡng. Vừa mới tới, ông nghe một giọng nói trầm hùng: “Này Tu-Đà Cấp Cô Độc, ta là người mà ông cần gặp đây”. Tu Đạt rất đỗi ngạc nhiên, tại sao cái tên Tu-Đà của ta chỉ có người trong gia tộc mới biết và không ai được gọi, thế mà ở đây lại có người biết và gọi mình như vậy? Tu Đạt nghĩ rằng, hay là ở đây có người bậc trên của gia tộc mình? Trong lúc còn đang ngớ ngẩn, ông thấy một người tướng mạo trang nghiêm, điềm đạm đi tới.
Bất giác Tu-Đạt liền quỳ xuống đảnh lễ đức Phật, trong lòng cảm thấy thoải mái và an lạc vô cùng. Và ngay lúc đó, ông được đức Phật khai thị pháp môn căn bản cho người tại gia.
Nghe xong bài pháp, Tu-Đạt Cấp Cô Độc chứng quả Tu-đà-hoàn, nghĩa là được vào dòng Thánh, không còn bị đọa lạc trong ba đường dữ: địa ngục, súc sanh và ngạ quỷ. Sau đó ông phát nguyện quy y Tam Bảo, gìn giữ năm điều đạo đức và phát tâm cúng dường hộ trì Tam Bảo, suốt đời giúp đỡ người bất hạnh nghèo khó. Nhờ tín tâm thuần thục, ông xin Phật cho xây dựng một Tịnh xá lớn để chư Tăng có chỗ giáo hoá và tu hành. Đức Phật chấp nhận lời thỉnh cầu của ông.
Cấp Cô Độc có nghĩa là cung cấp sự cần thiết cho người cô độc, côi cút, không nhà cửa, không người nuôi dưỡng, nghèo khổ. Trong đời, ông vốn cũng đã có lòng nhân từ, thường giúp đỡ mọi người không phân biệt thân, sơ. Đến khi gặp Phật, ông càng mở rộng tấm lòng bao la rộng lớn hơn.
Từ đó, ông trở về nước để tìm mua một khu đất rộng rãi, địa điểm thuận lợi, nhằm xây dựng một Tịnh xá lớn cho chư Tăng tu học, giáo hoá và hành trì. Ông tìm mãi mà không thấy nơi nào có miếng đất vừa ý, ngoài khu vườn của Thái tử Kỳ-Đà con vua Ba-Tư-Nặc. Thái tử Kỳ-Đà giàu có, đâu cần bán đất để làm gì? Nhưng vì quá ưa thích, ông bạo gan đến hỏi mua, Thái tử Kỳ-Đà bảo rằng:
Tôi sẵn sàng bán khu vườn cho ông với một điều kiện duy nhất, ông phải trải vàng lót đầy đất.
Nghe Thái tử nói thế Cấp Cô Độc mừng quá nên đồng ý liền, và cho người nhà chở vàng đến lót gần kín khu vườn, chỉ còn một khoảnh nữa là xong. Cấp Cô Độc đang suy nghĩ nên lấy số vàng trong kho nào để lót cho đủ, Thái tử Kỳ-Đà đến hỏi:
Bộ ông tiếc của hay sao mà đứng ngẫn người ra như thế?
Cấp Cô Độc trả lời:
Thưa Thái tử, không phải thế đâu. Tôi đang tính xem phải xây dựng Tịnh xá như thế nào để chứa đủ chư Tăng và Phật tử các nơi về đây nghe pháp và tu tập. Nghe vậy, Thái tử Kỳ-Đà cảm phục tấm lòng cao cả của ông đối với đức Phật và Tăng đoàn, Thái tử tuyên bố:
Kể từ giờ phút này, ông khỏi cần lót vàng nữa đất khu vườn này thuộc về ông, còn rừng cây trong vườn tôi xin hoan hỷ cúng dường cho đức Phật.
Ngày nay, đọc các bản kinh, chúng ta thường thấy: Tôi nghe như vầy, một thời Đức Phật ở rừng cây Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc…Đây chính là Tịnh xá trong khu vườn do Cấp Cô Độc và Thái tử Kỳ-Đà cùng dâng cúng. Đặc biệt, trong 49 năm thuyết pháp độ sinh, đức Phật đã ở tại Tịnh xá này suốt 25 mùa An cư kiết hạ.
Nói về Trưởng giả Cấp Cô Độc sau khi gặp đức Phật, ông luôn hết lòng tôn kính cúng dường Tam Bảo và giúp đỡ người cô độc bần cùng với lòng thành kính của mình. Suốt mấy chục năm thực hành bố thí cúng dường, cuối cùng tài sản nhà ông cũng cạn kiệt, do bị lũ lụt cuốn trôi. Gia tài sự nghiệp đã tan tành theo mây khói, cho đến khi cả nhà ông phải dùng cháo thay cơm mỗi bữa, nhưng ông vẫn một lòng tín tâm, chia bớt phần ăn của mình để cúng dường chư Tăng.
Nhờ phước đức bố thí, cúng dường quá lớn lao cùng với lòng thành kính của ông trong quá khứ và hiện tại, nên chẳng bao lâu sau, gia đình ông làm ăn được khấm khá trở lại. Và ông vẫn tiếp tục thực hành bố thí, cúng dường như trước đây mà không biệt thân sơ.
Đạo lý nhân quả nhà Phật giúp ta sáng ngời tình nhân loại trong hạt giống từ bi của hạnh bố thí, sẻ chia. Qua đó, chúng ta thấy hành động bố thí quan trọng ở tâm chân thành và lòng tôn kính như trường hợp của Cấp Cô Độc, một lòng gieo duyên với ruộng phước lớn. Và ông đã chứng quả “bất thoái chuyển” ngay trong hạnh này. Chúng ta nên nhớ rằng, phát tâm bố thí, cúng dường như gởi tiền vào ngân hàng, tuy không thấy có tiền nhưng khi cần xài liền rút ra.
Cấp Cô Độc phát tâm cúng dường Tam Bảo không biết mệt mỏi, nhàm chán, ông còn giúp đỡ những người cô độc nghèo khó không nơi nương tựa. Vì vậy, ông được quần chúng nhân dân tặng cho danh hiệu là Cấp Cô Độc.
Trong lịch sử Phật giáo, Cấp Cô Độc là tấm gương sáng về hạnh bố thí, cúng dường để chúng ta học hỏi noi theo. Con người muốn hoàn thiện nhân cách, lối sống, đạo đức … phải có sự học hiểu và tu tập hành trì. Người có đủ niềm tin Tam bảo, được chứng quả bất thối chuyển, người đó dù có gặp nghịch cảnh, khó khăn như thế nào, họ cũng giữ vững tấm lòng tốt của mình.
Bố thí, cúng dường là con đường dẫn đến tình yêu thương nhân loại bằng tình người trong cuộc sống, là cách thức xóa bỏ ân oán hận thù để ta cùng ngồi lại bên nhau, bằng trái tim yêu thương và hiểu biết.
Bố thí, cúng dường là nấc thang đầu tiên của hàng Bồ-tát để từng bước tiến lên con đường Phật đạo. Nhờ bố thí, cúng dường mà tâm ta được an lạc, thảnh thơi, thấy ai cũng là người thân thương của mình, không còn thấy ai là kẻ thù, nên mọi người dễ dàng thương yêu và đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau hơn.
Phật dạy, người biết gieo trồng phước đức thì trong hiện tại và tương lai được đầy đủ, giàu sang như ta có tiền gửi ngân hàng rút dần ra xài, còn người không biết gieo trồng phước đức thì như người có đồng nào xài đồng nấy, luôn phải chịu nghèo khó, vất vả cả đời mà chẳng có của dư.
Cấp Cô Độc là người giàu có, ngoài việc biết bố thí, cúng dường, giúp đỡ sẻ chia. Ngài còn là tấm gương sáng trong việc tu học và còn hướng dẫn toàn thể gia tộc tin sâu nhân quả và tín tâm Tam bảo. Nhờ vậy, trước khi mạng chung Ngài được Tôn giả Xá Lợi Phật và Tôn giả A Nan đến khai thị và sau đó an nhiên tự tại ra đi mà được sinh về cõi trời.
Còn chúng ta bây giờ là người xuất gia lúc nào cũng khuyên nhủ mọi người buông xả, nhưng ngược lại ta lại tham đắm chất chứa, nên một số người sống tèn tèn chẳng làm gì lợi ích cho ai mà vẫn thọ dụng của đàn na tín thí.
Nhiều người giàu có sẵn sàng bỏ ra hàng trăm tỉ để cúng dường Tam bảo, xây chùa to Phật lớn nhằm tạo thêm lòng tin cho mọi người biết, sự cao quý và giá trị thiết thực của đạo Phật, được xây dựng trên nền tảng nhân quả. Cho nên giàu có mà biết bố thí, cúng dường và khiêm tốn thấp mình học đạo, đó là gương sáng của các vị đại Bồ tát mới có thể làm được. Chúng ta phải biết trân trọng và tôn kính. Do đó Phật dạy giàu có mà biết bố thí, cúng dường là điều khó.
Trích "Phật dạy 20 điều khó" - Thích Đạt Ma Phổ Giác
Các tin tức khác
- Bố thí không từ chối (15/12/2014 2:17)
- Nội tâm tĩnh lặng (15/12/2014 1:47)
- Thanh lọc tâm (15/12/2014 1:44)
- Sống với thực tại (15/12/2014 1:08)
- Chống cự (13/12/2014 2:31)
- Tâm xấu bị ác báo (13/12/2014 2:18)
- Thiền và sức khỏe (13/12/2014 1:53)
- Năm triền cái (13/12/2014 1:46)
- Bán trầm hương (12/12/2014 12:23)
- Tự do căn cứ trên tinh thần tự giác (11/12/2014 11:58)