Cách hạn chế vi khuẩn kháng thuốc

21/03/2019 8:11
Đề kháng kháng sinh vẫn luôn là vấn đề nhức nhối trên toàn cầu hiện nay. Việt Nam được xếp vào nước có tỉ lệ đề kháng kháng sinh cao. Vậy cần phải làm gì để giảm thiểu sự đề kháng kháng sinh?

Kết quả nghiên cứu khảo sát cho thấy, ngay cả ở những nước đang phát triển như Mỹ, Hà Lan, tỷ lệ sử dụng kháng sinh không hợp lý là khá cao, vào khoảng 25-50%. Còn ở các nước đang phát triển, tỷ lệ sử dụng kháng sinh không phù hợp cao hơn nhiều, chẳng hạn tỷ lệ sử dụng kháng sinh bừa bãi gây kháng thuốc ở Nigeria lên đến 88%, tại Indonesia là 79%. Theo thống kê của Bộ Y tế Việt Nam, có tới 76% bác sĩ kê toa kháng sinh không phù hợp. Đây là nguyên nhân khiến 33% người bệnh bị kháng thuốc. Theo WHO, trên thế giới mỗi năm có khoảng 1,4 triệu trẻ em bị tử vong do kháng kháng sinh. Dự kiến, đến năm 2050, toàn cầu sẽ có khoảng 10 triệu ca tử vong do kháng kháng sinh.

Hiện tượng đề kháng kháng sinh

Kháng sinh được thầy thuốc kê toa cho bệnh nhân để điều trị và phòng ngừa các bệnh nhiễm trùng. Vi khuẩn bị kháng sinh tiêu diệt hay kìm hãm được gọi là vi khuẩn nhạy cảm với kháng sinh, ngược lại là hiện tượng đề kháng kháng sinh. Hậu quả là vi khuẩn gây bệnh vẫn tồn tại và phát triển, ngay cả khi kháng sinh được dùng với liều rất cao so với liều điều trị thông thường. Có hai loại đề kháng kháng sinh:

Đề kháng tự nhiên: Là thuộc tính di truyền của vi khuẩn. Tất cả vi khuẩn của một chủng nào đó đều đề kháng với một hay một vài kháng sinh nhất định, do đặc điểm cấu tạo hay do khả năng biến dưỡng của nó. Chẳng hạn, khuẩn Streptococcus đề kháng tự nhiên với phân nhóm kháng sinh aminoglycosid do thành của vi khuẩn này không cho kháng sinh đi qua.

Đề kháng tiếp nhận: Bình thường vi khuẩn gây bệnh nhạy cảm với kháng sinh, nhưng vì một lý do nào đó như tia xạ hóa chất, gây đột biến nhiễm sắc thể làm vi khuẩn không còn nhạy cảm với kháng sinh đó nữa. Loại này ít xảy ra và mang tính tự phát. Hoặc do vi khuẩn tiếp nhận gene đề kháng kháng sinh từ bên ngoài bởi thể thực khuẩn (phage) hay do sự tiếp xúc giữa các vi khuẩn với nhau.

Để thực hiện được vai trò khống chế vi khuẩn của mình, kháng sinh cần phải tìm mọi cách gắn dính vào vi khuẩn qua một điểm gắn đặc hiệu gọi là thụ thể, tạo thành liên kết vi khuẩn - kháng sinh, rồi luồn lách để lọt qua hàng phòng vệ vững chắc thành tế bào vi khuẩn và quan trọng nhất là kháng sinh đó không bị phân hủy bởi các men do vi khuẩn tiết ra hay do các phản ứng sinh hóa của chính cơ thể người dùng thuốc.

Vi khuẩn đã tự vệ để tồn tại như thế nào?

Vi khuẩn đã tạo ra những cách tự vệ để có thể tồn tại, chủ yếu như sau:

Cách thông thường nhất là phá vỡ cấu trúc, làm mất hoạt tính của kháng sinh. Ví dụ: Đối với kháng sinh có vòng bêta-lactam thì vi khuẩn tiết ra men bêta-lactamase phá vỡ vòng này làm kháng sinh không còn tác dụng nữa. Để khắc phục hiện tượng này, các hãng sản xuất dược phẩm đã phối hợp một kháng sinh có vòng này với một chất có tác dụng ức chế men bêta-lactamase, chẳng hạn như amoxicillin với acid clavulanic hoặc ampicillin với sulbactam.

Làm thay đổi điểm gắn kết khiến kháng sinh không nhận diện được, từ đó kháng sinh bị vô hiệu hóa.

Giảm tính thấm của thành tế bào, do đó kháng sinh không thể lọt vào bên trong được nên không thể phát huy tác dụng.

7 nguyên tắc dùng thuốc để giảm đề kháng kháng sinh

Hiện nay, vi khuẩn đề kháng với kháng sinh ngày càng gia tăng, nguyên nhân là do sử dụng kháng sinh bừa bãi, tùy tiện. Bất cứ bệnh gì từ sốt, đau đầu đến ho, chảy mũi... người bệnh đều tự ý dùng kháng sinh, dù chưa biết nguyên nhân gây bệnh là gì và dùng quá thường xuyên. Hậu quả là vi khuẩn quen dần với kháng sinh, làm vi khuẩn có sức đề kháng với kháng sinh. Ngoài ra, còn có nguyên nhân khác nữa là do sự tiếp xúc giữa những người bị nhiễm trùng (nhiễm trùng chéo) dẫn đến tình trạng là có những người bị đề kháng với những kháng sinh mà mình chưa dùng bao giờ, gọi là đề kháng chéo.

Để giảm tình trạng đề kháng kháng sinh ngày một gia tăng như hiện nay, khi bị nhiễm khuẩn người bệnh phải dùng thuốc theo sự chỉ dẫn của thầy thuốc, không nên tự ý dùng thuốc hoặc dùng theo sự mách bảo của người khác.

Chỉ sử dụng kháng sinh khi thật sự bị bệnh nhiễm khuẩn. Chỉ có thầy thuốc điều trị dựa vào kinh nghiệm chữa bệnh, dựa vào xét nghiệm, làm kháng sinh đồ mới xác định được có nhiễm khuẩn hay không.

Phải chọn đúng loại kháng sinh. Nếu chọn dùng kháng sinh không đúng loại bệnh thuốc sẽ không có hiệu quả.

Phải có sự hiểu biết về thể trạng người bệnh. Đối với những trường hợp đặc biệt như người già, người bị suy gan, suy thận... khi sử dụng kháng sinh cần tính toán về liều lượng một cách thận trọng.

Phải dùng kháng sinh đúng liều, đúng cách,- đủ thời gian. Tùy theo loại bệnh và tình trạng bệnh, thời gian dùng kháng sinh có khi dài khi ngắn nhưng thông thường là không dưới 5 ngày.

Chỉ phối hợp nhiều loại kháng sinh khi thật cần thiết.

Phòng ngừa bằng thuốc kháng sinh phải thật hợp lý. Chỉ có những trường hợp đặc biệt thầy thuốc mới cho dùng thuốc kháng sinh gọi là phòng ngừa như dùng kháng sinh phòng ngừa trong phẫu thuật do nguy cơ nhiễm khuẩn hậu phẫu hoặc người bị viêm nội mạc tim đã chữa khỏi vẫn phải dùng kháng sinh để ngừa tái nhiễm...

BS. NGÔ VĂN TUẤN

Các tin tức khác

Back to top