Tâm đáng tin

15/04/2015 12:30
Tâm đáng tin là tâm gì? Tâm mà chư Tổ thường nhắc mình phải tin nhận trở lại để sống đó, gọi là bản tâm chân thật, hay gọi là tâm xưa nay trong sạch chưa từng ô nhiễm, đó mới là tâm đáng tin.

Trong Tín Tâm Minh, Tam Tổ Tăng Xán dạy: "Phải tin tâm". Tin tâm là tin cái tâm này chứ không phải là tin cái tâm lén chạy đi đông đi tây. Phải hiểu kỹ điều đó để nhận cho rõ ràng chứ không thì lầm lẫn. Tâm chân thật của mình còn gọi là tâm thể nguyên thủy. Tâm thể nguyên thủy chưa bị luân hồi làm biến chất mới là cái tâm đáng tin, còn tâm theo duyên sanh diệt, luân hồi là không đáng tin, tin theo nó là nguy hiểm. Như vậy thì tin nhận cái tâm nguyên thủy, đó là chỗ sống của chư Tổ Thiền tông.

Sơ Tổ Trúc Lâm trong bài phú Cư Trần Lạc Đạo: "Miễn được lòng rồi, chẳng còn phép khác", nhận được tâm này rồi thì không còn pháp nào nữa hết. Đó là chỗ chân thật để mình sống, chỗ trở về an ổn của mình. Đây mới là tâm gốc, còn những tâm lăng xăng là tâm ngọn. Vì là tâm gốc nên không có nhiều tâm, còn tâm ngọn thì không thể tính hết. Chúng sanh vì quên tâm gốc này mà tin theo các tâm ngọn cho nên phải đi mãi trong luân hồi. Bởi vì nó có vô lượng cho nên nó cứ chạy mãi không dừng, gọi là sống lang thang làm khách phong trần, sống xa quê.

Trong nhà thiền có câu: "Nhất ba tài động vạn ba tùy", tức là một lượn sóng vừa khởi lên thì muôn ngàn lượn sóng khởi theo. Cũng vậy, một tâm vừa khởi thì bao nhiêu thứ tâm nổi theo nổi theo. Quí vị ngồi thiền kiểm soát lại tâm mới thấy sợ. Thí dụ mới ngồi đó liền nhớ lại hồi nhỏ mới đi học. Khi vừa nhớ hồi nhỏ mới đi học thì bao nhiêu thứ nào là thầy giáo, cô giáo, bạn bè … theo cả dọc, không phải là chỉ ngang đó thôi. Cho nên mình phải khéo nhận rõ, để sống trở lại, tin nhận trở lại cái tâm gốc, trở về cái tâm gốc vốn không hai, không còn chạy ở đâu hết thì đó mới thật sự là an ổn. Đó gọi là an tâm.

Trong Tín Tâm Minh, Tam Tổ dạy: "Chí đạo vô nan, duy hiềm giản trạch, đản mạc tắng ái, đổng nhiên minh bạch", nghĩa là chí đạo thì không khó, chỉ vì chọn lựa. Chớ có yêu ghét thì nó rỗng rang sáng tỏ. Tâm thể chân thật là chỗ chí đạo. Không khó tức là cái tâm thể chân thật của mình ở ngay chính mình chứ không đâu xa hết, chỉ vì hướng ra bên ngoài chọn cái này lựa cái kia nên trái xa với nó rồi. Chớ khởi yêu ghét lăng xăng thì tự nó rỗng rang, là sáng tỏ. Khi mình khởi yêu ghét tức là mình tự bỏ quên chính nó mà hướng ra ngoài chạy theo cái bóng nên có yêu ghét, có lấy có bỏ.

Thử hỏi bản tâm chính mình đây rồi thì còn ai trong đó nữa để mà mình yêu ghét? Lâu nay chúng ta sống trong điên đảo, có khi mình cũng yêu mình, có khi mình cũng ghét mình, tự mâu thuẫn với mình. Đó là sống với cái tâm yêu ghét, sống với cái tâm hư dối. Bởi vậy Thiền tông luôn luôn nhắc người học phải tin nhận trở lại cái tâm gốc này để sống, vì đó mới là cái tâm đáng tin.

Thiền sư Hoàng Bá thường nhấn mạnh chỗ này, Ngài bảo: "Các Tổ Thiền tông xưa nay chỉ dạy truyềân trao cái tâm thể chân thật này thôi. Gọïi là học đạo chỉ là lời nói để tiếp dẫn người chứ sự thật không có cái đạo để học, còn nghĩ học hiểu trở thành mê đạo". Thế mới thấy Thiền sư dạy không giống học ở trường; trường học thì giải thích thế này thế kia để mình học, còn ở đây bảo học đạo là không có gì để học hết. Nói có ngược đời không? Nhưng mà đó là chỉ thẳng vào chân thật. Bởi vì nếu có cái đạo để cho mình học thì cái đạo đó là đạo ở trong sách vở, đạo trong chữ nghĩa, đạo trong hiểu biết không phải là đạo chân thật. Đạo chân thật chính là tâm thể này, mà tâm thể này là ngay chính mình rồi thì còn có đạo nào khác để mình học? Cho nên Ngài nói học đạo mà không có cái đạo nào để học, đó là chỉ vào chỗ chân thật. Đó mới là nói thật, nói thẳng.

Thí dụ như nói rằng: "Ông theo tôi học đạo đi, học chừng ba tháng là tôi cho ông đắc đạo", đó là nói gạt, phải không? Vì đạo là tâm thể chân thật của chính mình đây thôi thì làm sao cho? Nên: "Đạo không có chỗ nơi, học đạo hay nhất là không được khởi hiểu biết", mình cứ lo tìm hiểu biết bên ngoài, tìm cái đạo trong sách vở này, sách vở kia rồi tin nhận, bám vào cái đạo đó thì có lúc sẽ ăn năn hối hận. Bởi vì đạo mà do tìm hiểu biết, đến khi sắp tắt thở thì sách vở, chữ nghĩa, và đạo đó có cứu được không? Lúc đó không có thời gian để nhớ. Đạo chân thật vốn ở ngay nơi tâm chứ không có chỗ nơi nào khác, nếu tìm đạo ở nơi nào khác thì đó không phải là đạo chân thật.

Và: "Đạo không có chỗ nơi, nên còn gọi là tâm đại thừa". Tâm đại thừa hay là tâm thể xưa nay thanh tịnh ở ngay tất cả chúng sanh. Nó là gốc của tất cả chư Phật và chúng sanh, nó độ khắp tất cả không bỏ sót ai hết. Ai tin nhận được nó thì đều được độ, đó mới gọi là tâm đại thừa, tức là cỗ xe lớn chở hết không bỏ sót. Đức Phật nhận trước thì thành Phật trước. Chúng sanh nhận sau thì thành Phật sau. Còn không nhận thì làm chúng sanh hoài.

Nhưng nếu khởi tâm tìm cầu hiểu biết nó thì lại mất nó. Bởi vì khi mình tìm cầu hiểu biết nó tức là mình biến nó thành cái thứ hai để cho mình hiểu biết, nên gọi là mất nó. Thí dụ như con mắt mình đây có thấy được chính nó không? Con mắt không làm sao thấy được con mắt. Nếu mình nói con mắt thấy được con mắt thì đó là cái bóng của con mắt trong gương chứ con mắt làm sao thấy được con mắt. Nhưng nhơn thấy được cái này cái kia thì biết là có con mắt chứ con mắt nó không tự thấy nó. Tâm này cũng vậy, nhơn có hiểu được cái này biết rõ cái kia, mình khéo thầm nhận là tâm chứ không thể nào tâm thấy được tâm. Cho nên Thiền sư Hoàng Bá cũng từng bảo: "Người học đạo thẳng đó vô tâm thầm khế hội, nghĩ tâm tức là sai, lấy tâm truyền tâm đây là chánh kiến, dè dặt chớ hướng ra ngoài, chạy theo cảnh, nhận cảnh làm tâm là nhận giặc làm con". Tức Ngài bảo là thẳng đó vô tâm, thầm khế hội thì đó là trúng, còn nghĩ tâm thì đó là sai. Thẳng đó vô tâm tức là buông hết mọi thứ tâm chạy theo cảnh rồi, thì ngay khi tôi nói đây, quí vị nghe đó là tự thầm cảm thông liền. Chớ có chạy theo tiếng nói. Đó là tâm truyền tâm. Thầm khế hội đó là khéo. Tin nhận trở lại cái tâm chân thật này không chạy theo những hiểu biết ngôn ngữ văn tự, gọi là yếu chỉ để tin tâm, yếu chỉ để về nguồn. Luôn luôn nhớ trở lại nhận được tâm đó gọi là thầm hội, thầm nhận chứ không phải khởi hiểu biết.

Thiền sư Hoàng Bá cũng nhắc: "Cái tâm bản nguyên thanh tịnh này tự tròn sáng soi khắp, người đời không tỏ ngộ chỉ lấy cái thấy nghe hiểu biết làm tâm nên bị cái thấy nghe hiểu biết che đậy, cho nên không thấy được cái bản thể tinh minh thật sáng suốt". Ở đây, Ngài nhắc để cho tất cả người học đạo phải tin nhận trở lại tâm cội nguồn chân thật này, nó tự tròn sáng soi khắp đầy đủ không sợ thiếu. Không biết như vậy, lo cầu thêm nữa thành bị gạt. Thật sự tâm thể là cái thể biết, đã là thể biết thì tự nó biết rồi còn tìm cái gì khác nữa? Đã là thể biết rồi thì không ai làm cho nó tiêu mất được. Cho nên trong kinh kể, những người tạo tội nặng đọa vào địa ngục bị dầu sôi, lửa bỏng, khi đốt cháy thân ra tro xong rồi có làn gió thổi qua liền sống trở lại chịu tội nữa, không mất. Khi hết tội địa ngục rồi cũng sanh trở lại, hoặc là làm thú, làm người rồi cứ tiếp tục luân hồi dài dài.

Bởi vậy tất cả quí vị hãy nhớ kỹ, đừng có sợ thiếu. Vì sợ thiếu nên cứ lo tìm cầu thêm hoài. Mà cầu thêm tức là thu vào. Thu vào tức là vay mượn. Tất cả những gì mình hiểu biết hiện tại đây là mình vay mượn mà cứ nghĩ là của mình nên chết ở chỗ đó. Quí vị nghĩ coi, lúc mới sanh ra có bao nhiêu kiến thức hiểu biết? Rồi bây giờ được bao nhiêu? Những cái gọi là kiến thức, hiểu biết mình hiện tại là ở đâu vào? Không phải là vay mượn hay sao mà lại nhận là mình? Từ chỗ sai lầm đó mà có đấu tranh, có cãi nhau, và khổ. Thí dụ mình nghĩ ta là giáo sư, bao nhiêu kiến thức đó là của ta. Ai nói khác với kiến thức đó thì sao? Cãi. Hoặc ta là bác sĩ, những kiến thức đó mình cũng mới học đây thôi, có nghĩa là cũng vay mượn vào chứ không phải là cái của ta. Cho đến những kiến thức tôn giáo cũng vậy, mới sanh ra thì không có kiến thức tôn giáo, nghĩa là tôi không phải Phật giáo, không phải là Thiên chúa giáo gì hết. Lớn lên mới huân tập thì đó là cái huân tập. Cho nên, Phật dạy chúng ta phải quán kỹ để thấy rõ những cái hiểu biết đó đều là cái vay mượn, đều nằm trong vô thường khổ vô ngã hết.

Thí dụ như mình hiểu như vậy, mình nói như vậy, nhưng người khác nói không phải thì sao? Thì tôi hiểu vậy còn anh hiểu khác đó là tùy anh. Cái mình hiểu đây là do mình huân tập theo chiều này, thì mình hiểu như vậy thôi. Phật thường nói: "Người biết tôn trọng chân lý và người không biết tôn trọng chân lý" là sao?

Tức là người nói: "Theo chỗ hiểu của tôi là như vậy" thì đó là người biết tôn trọng chân lý. Còn người nói rằng: "Tôi thấy như vậy là đúng" thì đó là người không biết tôn trọng chân lý. Người biết tôn trọng chân lý thì thấy mỗi người có thể thấy theo nghiệp riêng của họ, còn xác định là mỗi người phải thấy đúng như tôi thì đó là người không tôn trọng chân lý. Bắt buộc mỗi người phải thấy đúng như tôi mới được, thì đó là ngã kiến, mà mình thấy đâu phải cái nào cũng đúng. Cái thấy của tôi là như vậy, anh thấy khác thì tùy anh, như vậy thì bớt cãi.

Ngài Hoàng Bá chỉ rõ cái tâm thể cộïi nguồn của chúng ta vốn tự tròn sáng, nó soi khắp, đầy đủ tính biết, đừng sợ thiếu nó nữa, đừng thêm vào. Những gì thêm vào thì mình biết là không phải thật nó, đó là những thứ vay mượn, đừng có nhận làm mình gọi là nhận giặc làm con.

Và đã tròn sáng là soi khắp thì hiện tại đây nó có hay không? Đó là vấn đề. Đã soi khắp thì tại sao hiện tại đây không có? Không có thì làm sao gọi là soi khắp? Còn nếu hiện tại đã có, sao không thấy? Vậy thì lỗi tại chỗ nào?

Chúng ta học đạo là đi sâu vào trong đó chứ không phải trên chữ nghĩa. Lỗi tại chỗ nào thì đây dành cho mỗi người tự trả lời. Đúng ra những gì Phật dạy, người trí phải nhận định rõ ràng điều đáng tin thì tin, điều không đáng tin thì không tin. Đối với chúng ta, việc đáng tin lại không tin, việc không đáng tin thì lại quá tin. Do đi ngược, cho nên Phật nói điên đảo là chỗ đó. Điên đảo tức là thấy đảo ngược. Khi học đạo rồi thì chúng ta phải chuyển lại, tức là cái không đáng tin thì không tin, còn cái đáng tin thì phải tin. Nhận rõ ràng đó là sống trở lại với trí tuệ.

Trích "Chớ Tin Tâm Mình" - TT. Thích Thông Phương

Các tin tức khác

Back to top