Nên lựa chọn một tôn giáo chân chính cho chính mình

23/07/2016 2:03
Phật giáo là một tôn giáo mà chúng ta có thể nương tựa để sống an lạc và giúp cho người khác cũng được sống an lạc. Trong khi thực hành theo tôn giáo này, chúng ta vẫn có quyền tôn trọng những người theo tôn giáo khác.

Nếu như thực sự khó có thể tôn trọng hành vi và thái độ kỳ thị của họ thì ít nhất chúng ta cũng cần có sự khoan dung, không để mình bị lôi cuốn vào những xung đột sắc tộc, tôn giáo.

Cách đây hơn 25 thế kỷ về trước, thời đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế, Ấn Độ lúc bấy giờ lĩnh vực tri thức là một phong trào hoạt động sôi nổi. Thời ấy, một số những nhà trí thức lỗi lạc bậc nhất mà thế giới đã từng biết đến, tích cực tham gia vào các cuộc tranh luận tôn giáo.

Những vấn nạn thắc mắc như: Có tồn tại một đấng tạo hóa? Có phải không có một đấng tạo hóa? Có hay không một linh hồn tồn tại? Thế giới không có khởi điểm hay có sự khởi điểm? Đây là một số chủ đề được nêu để tranh luận sôi nổi bởi những bậc luận sư hùng biện thiện xảo nhất thời bấy giờ.

Và tất nhiên cũng như ngày hôm nay vậy, mỗi cá nhân đều tuyên bố rằng chỉ có họ là có đủ thẩm quyền để giải đáp tất cả các vấn nạn trên và bất cứ ai không theo họ thì sẽ bị trừng phạt và có thể bị đọa địa ngục! Trên thực tế mọi nỗ lực tìm cầu chân lý như vậy chỉ để tạo thêm sự u mê mà thôi.

Bấy giờ có một nhóm thanh niên nhiệt tâm kêu gọi dân làng Kalama đến bái kiến đức Phật Thích Ca Mâu Ni và thưa thỉnh với Ngài về những hoang mang của họ. Họ hỏi đức Phật rằng người ta nên làm gì trước khi chấp nhận hay từ chối một học thuyết.

1. Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó là truyền thuyết.

Những lời giáo huấn của đức Phật được ghi chép trong bài kinh Kalama là không nên chấp nhận bất cứ một điều gì, những điều được dựa vào truyền thuyết, truyền thống hay được đồn đại. Thường thì người ta phát khởi niềm tin sau khi nghe người khác. Họ chấp nhận một cách thiếu tư duy những gì mà người khác rao giảng về tôn giáo hay những gì được thuật lại trong kinh điển, giáo lý của họ. Hầu hết người ta hiếm khi chịu khó để thẩm xét, tìm hiểu xem liệu những gì được nói đến là chân thật hay hư dối. Thái độ thiếu thận trọng này rất khó hiểu, đặc biệt trong thời hiện đại này, khi có một nền giáo dục khoa học dạy người ta không nên chấp nhận bất kỳ một điều gì mà điều đó không thể giải thích một cách hợp lý. Vậy mà ngày nay vẫn có rất nhiều thanh niên có trình độ học vấn cao cũng chỉ biết dùng cảm tính hay lòng sùng tín của họ mà không sử dụng ý thức, lý trí.

Trong bài kinh Kalama, đức Phật Thích Ca Mâu Ni đưa ra lời giáo huấn hết sức phóng khoáng cho những thanh niên biết thế nào để tiếp nhận một tôn giáo với thái độ lý trí. Khi những người trẻ này không thể quyết định làm sao để chọn một tôn giáo chân chính, họ liền tìm đến đức Phật để thỉnh cầu lời giáo huấn. Họ cùng thưa thỉnh với Ngài rằng vì có nhiều nhóm tôn giáo giới thiệu tôn giáo của mình theo nhiều cách khác nhau nên họ bị hoang mang và không thể hiểu được đâu là sự thật. Những thanh niên này có được mô tả theo thuật từ hiện đại như là những nhà tư tưởng phóng khoáng hay những người tìm cầu chân lý. Đó là lý do tại sao họ quyết định thảo luận vấn đề này với đức Phật. Họ thỉnh cầu đức Phật chỉ bày cho họ một số hướng dẫn để giúp họ tìm một “tôn giáo lý trí” mà qua đó họ có thể tìm thấy được chân lý.

Để đáp lời thỉnh cầu chí thành của họ, đức Phật không tuyên bố rằng giáo pháp là lời dạy có giá trị duy nhất và bất cứ ai tin vài một điều gì khác sẽ đọa vào địa ngục. Thay vào đó, Ngài đưa ra một số lời giáo huấn để họ tự suy gẫm. Đức Phật chưa từng bao giờ khuyến khích người ta tiếp nhận một tôn giáo chỉ dựa vào đức tin duy nhất. Ngược lại, Ngài khuyên nhủ họ nên thẩm xét và tìm hiểu sự tình mà không nên có tâm thành kiến. Ngài cũng không khuyến khích người ta chỉ dùng cảm tính và lòng sùng kính một đạo dựa trên đức tin mù quáng để tiếp nhận một tôn giáo. Đó là lý do tại sao tôn giáo được y cứ trên lời giáo huấn của Ngài thường được mô tả là một “Tôn giáo lý trí” (Rational Religion). Nó cũng được biết đến như là một “Tôn giáo khai phóng khoa học" (Freedom And Reason). Chúng ta không nên tiếp nhận một tôn giáo chỉ vì tôn giáo ấy xoa dịu nỗi lo sợ khờ khạo của chúng ta về những gì xảy ra đến với chúng ta, khi chúng ta chết hoặc bị đe dọa với hỏa ngục nếu chúng ta không tiếp nhận thuyết giáo này hay thuyết giáo kia. Tôn giáo phải được tiếp nhận bằng sự lựa chọn tự do. Mỗi người nên tiếp nhận một tôn giáo bằng sự hiểu biết mà không phải vì luật lệ được áp đặt bởi uy lực cai trị của kẻ cầm quyền hay quyền lực siêu nhiên. Cần phải có một niềm tin có lý trí và mang tính cách cá nhân đối với tôn giáo được tiếp nhận.

Người ta có thể tạo ra bất kỳ lời tuyên bố khoác lác về tôn giáo của họ bằng cách phóng đại hàng loạt những sự kiện nhằm gây ảnh hưởng đến người khác. Sau đó họ có thể quảng bá chúng như là những bức thông điệp thánh thiện để cổ xúy đức tin và thuyết phục. Nhưng chúng ta cần phải đọc những chủ đề này với đầu óc phân tích bằng cách dùng ý thức khách quan và sức mạnh lý trí. Đó là lý do mà đức Phật giáo huấn chúng ta không nên vội vàng tiếp nhận bất cứ điều gì thuộc về truyền thuyết, truyền thống hay chỉ là truyền tụng. Con người thực hành một số truyền thống được y cứ vào tín ngưỡng, tập tục hay lối sống cộng đồng nơi họ đang sống.

Tuy nhiên, một số truyền thống lại rất quan trọng và có ý nghĩa. Do vậy, đức Phật không phải hoàn toàn phủ nhận tất cả mọi truyền thống mà Ngài khuyên nhủ chúng ta nên cẩn thận thẩm xét, liệu một sự thực hành nào đó có ý nghĩa hay không? Chúng ta cần phải thừa nhận rằng có một số truyền thống trở nên cổ hủ, lỗi thời và vô nghĩa sau một giai đoạn tồn tại. Điều này có thể là vì có rất nhiều những truyền thống được giới thiệu và thực hành bởi con người sơ khai, khả năng hiểu biết về cuộc đời và thiên nhiên của họ vào thời kỳ ấy hết sức giới hạn. Tuy nhiên ngày nay, khi chúng ta dùng học vấn và kiến thức khoa học hiện đại về vũ trụ, chúng ta sẽ hiểu rõ được bản chất tín ngưỡng của họ. Tín ngưỡng mà con người sơ khai thực hành liên quan đến mặt trời, mặt trăng và các vì sao, địa cầu, mưa gió, sấm chớp, động đất được dựa vào các nỗ lực của họ để giải thích những hiện tượng bề ngoài của những kinh hãi này. Họ tuyên truyền những hình ảnh và sự kiện ấy như là những vị thần hay các hành động của một vị thần với quyền năng siêu nhiên.

2. Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó thuộc về truyền thống.

Bằng kiến thức khoa học hiện đại ngày nay, chúng ta có thể lý giải thích đáng những hiện tượng thiên nhiên kinh hãi ấy. Điều này để chúng ta hiểu tại sao đức Phật giáo huấn “Không nên tiếp nhận những gì chỉ được nghe nói. Không nên nỗ lực chứng minh hành vi phi lý của mình bằng cách rằng đây là truyền thống của chúng ta và bắt buộc mọi người phải tiếp nhận nó”. Chúng ta không nên tin vào tín lý dị đoan hay giáo điều chỉ vì các thế hệ đi trước đã tin. Đây không phải muốn chúng ta phủ nhận hay không biết tôn trọng tiền nhân nhưng chúng ta cần phải thích ứng với thời đại. Chúng ta nên duy trì những tập tục tín ngưỡng tương hợp với quan điểm và giá trị của thời đại và nên từ bỏ điều gì thấy không cần thiết hay không còn thích hợp bởi vì thời gian đã thay đổi. Bằng cách tư duy, chúng ta có thể sống một cuộc đời tiến bộ và lành mạnh hơn nhiều.

Một thế hệ trước, có vị giáo sĩ gốc vương quốc Anh (Giáo sĩ Tin Lành) đưa ra một thành ngữ lấp lửng ba phải rằng “Thiên Chúa của những khoảng thế giới được khai phóng, thì huyền năng của Thiên Chúa cũng theo đó mà mất đi”.

3. Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó được nhiều người nhắc đến hay tuyên truyền.

Chắc ai cũng thích nghe những câu chuyện kể. Có lẽ đây là một lý do tại sao người ta lại tin vào những điều chỉ được nghe nói. Giả sử rằng một trăm người đã chứng kiến một sự kiện nào đó và khi mỗi người thuật lại sự kiện này cho người khác nghe, anh ta sẽ kể theo nhiều cách khác nhau bằng sự thêu hoa dệt gấm và phóng đại những chi tiết. Anh ta sẽ “thêm mắm dặm muối” để tạo cho câu chuyện thêm ly kỳ và hấp dẫn. Nói chung, mỗi người kể lại câu chuyện như thể anh là người duy nhất có thể kể với người khác về những gì sự thực đã xảy ra. Đây là bản chất của những câu chuyện mà người ta sáng tạo ra và tuyên truyền. Khi bạn đọc những câu chuyện từ một tôn giáo nào đó nên lưu ý rằng hầu hết những lời giải thích trong những câu chuyện ấy chỉ là để tô điểm cho những sự kiện nhỏ nhặt nhằm mê hoặc con người.

Nếu không thì sẽ chẳng có gì cho họ ba hoa với người khác và cũng không ai để ý đến họ nữa. Tất nhiên, cũng có nhiều câu chuyện có thể rất hữu ích. Những câu chuyện như vậy có ý nghĩa trong việc chuyển tải những bài học đạo đức. Kinh điển Phật giáo là kho tàng quý báu vĩ đại chứa đựng nhiều câu chuyện như vậy. Nhưng đó vẫn chỉ là những câu chuyện đơn thuần. Chúng ta không nên tin vào những câu chuyện ấy như là một chân lý tuyệt đối. Chúng ta không nên như những đứa trẻ ngây thơ tin rằng loài sói nuốt sống những bà lão và nói được tiếng nói của loài người! Theo đức tin của họ, người ta có thể nói về nhiều loại thần diệu, các vị nam thần, nữ thần, thiên thần và quyền năng của họ.

Hầu hết người ta có chiều hướng tiếp nhận những điều ấy ngay mà không cần đến một sự kiểm chứng nào. Nhưng theo đức Phật thì chúng ta không nên vội vàng tin tưởng vào bất cứ điều gì bởi vì những người thuật chuyện cho chúng ta có khi chỉ là những kẻ tự lừa dối mình. Phần nhiều người đời vẫn còn si mê và khả năng hiểu biết về chân lý của họ thấp kém. Rất ít người hiểu được vấn đề một cách đúng đắn. Làm sao kẻ đui mù lại có thể dẫn lối được cho kẻ mù quáng? Do vậy mà có câu nói khác rằng “Chàng Jack mắt chột có thể là vua trong vương triều của những kẻ mù” (A one-eyed Jack can be a king in a kingdom of the blind). Một số người chỉ có thể hiểu được sự thật một phần. Chúng ta phải ý thức trong việc đặt niềm tin tuyệt đối của mình nơi họ.

4. Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó được ghi lại trong sách vở hay kinh điển.

Sau đó, đức Phật cảnh báo chúng ta không nên tin vào điều gì, chỉ vì điều đó được ghi lại trong kinh điển hay thánh thư. Người ta luôn nói rằng tất cả những thông điệp ghi lại trong thánh kinh được truyền đạt trực tiếp từ Thượng đế của họ. Ngày nay, họ đang nỗ lực giới thiệu những quyển sách này như những bức thông điệp đến từ thiên đường. Thật khó tin rằng họ đã tiếp nhận bức thông điệp này từ thiên đường và sao chép lại trong thánh kinh của họ chỉ cách đây vài thế kỷ. Tại sao những điều mặc khải này lại không được thực hiện trước đó? (Lưu ý rằng tuổi của hành tinh này là bốn tỷ rưỡi năm).

Tại sao những bức thông điệp này lại chỉ được mặc khải cho một vài cá nhân được ân điển thần bí nào đó thôi? Chắc chắn việc làm đó sẽ có nhiều hiệu quả hơn nếu tập hợp nhiều người lại tại một địa điểm và mặc khải chân lý cho số đông hơn là cậy vào một người để thực hiện mục vụ. Thậm chí còn hiệu quả hơn nữa là tại sao các thần thánh của họ lại không nên hóa hiện trong thân thể vật lý vào những dịp lễ quan trọng thỉnh thoảng trong năm để chứng minh cho sự tồn tại của mình? Làm theo cách như vậy thì chắc chắn họ sẽ không gặp phải rắc rối gì trong nỗ lực cải đạo thế giới?

Đối với phật tử không cần phải nỗ lực giới thiệu giáo lý của đức Phật như một bức thông điệp mang tính thần thánh và họ truyền bá giáo pháp mà chẳng cần dùng đến bất kỳ hình thức quyền năng, huyền bí nào. Theo đức Phật, chúng ta không nên tiếp nhận, ngay cả những giáo lý của Ngài đã ghi chép thành kinh điển một cách mù quáng và thiếu sự tư duy đúng đắn. Đây là phương pháp tự do đặc biệt mà đức Phật đã dạy. Mặc dù Ngài chưa bao giờ tuyên bố rằng Phật giáo đồ là những người được tuyển chọn của một vị thần nhưng Ngài đã mang đến một sự tin cậy vững chắc cho tri thức nhân loại. Phương pháp tối ưu cho một người có lý trí tuân thủ là phải xem xét cẩn thận trước anh ta chấp nhận hay từ chối điều gì.

Cần nghiên cứu, suy tư, thẩm xét cho đến khi bạn nhận ra thực chất của vấn đề ấy là gì. Nếu bạn tiếp nhận bằng cách chỉ lệ thuộc vào uy quyền hoặc vào thánh kinh thì bạn sẽ không bao giờ tìm thấy được chân lý cho chính bạn.

5. Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó lý luận siêu hình.

"Đừng tin vào lý luận suông" (logic and argument alone) là lời giáo huấn khác của đức Phật. Chớ nghĩ rằng tài năng lý luận của bạn là tuyệt đối. Nếu không, bạn sẽ trở nên kiêu mạn và không chịu lắng nghe người khác - người biết nhiều hơn bạn.

Thông thường, chúng ta tư vấn cho mọi người nên dùng ý thức suy luận của họ. Đúng vậy, nhờ biết sử dụng các giác quan và tâm thức giới hạn của mình, con người khác với loài cầm thú ở chỗ biết suy luận sự việc cho chính mình. Ngay cả những đứa trẻ con và người ít học cũng biết dùng sức mạnh lý luận tùy theo độ tuổi, sự chín chắn, học vấn và tầm hiểu biết của họ. Nhưng năng lực lý luận này biến đổi theo sự trưởng thành, kiến thức và kinh nghiệm từng trải. Lại nữa, hình thức lý luận này chịu sự biến đổi theo thời gian.

Sự thừa nhận của con người đối với những ý niệm cũng thay đổi theo thời gian. Theo cách lập luận như thế, thì không có sự phân tích sau cùng hay chân lý tối hậu. Vì chúng ta không có sự lựa chọn nào khác nên chúng ta đành phải sử dụng ý thức luận lý hết sức giới hạn của mình từ lúc sơ khởi cho đến khi chúng ta đạt đến một mức độ hiểu biết đúng đắn. Mục đích là nhằm phát huy liên tục tâm thức của mình để sẵn sàng học hỏi người khác mà không quy phục trước niềm tin mù quáng.

Nhờ nhiều lối tư duy khác nhau bởi sự thể hiện của mình, nhờ việc để cho niềm tin của chúng ta được đối diện với thách thức, thử nghiệm và bằng cách luôn duy trì một tâm trí cởi mở, chúng ta sẽ phát triển tầm hiểu biết về bản thân và thế giới xung quanh. Đức Phật đã từng tham học với nhiều vị thầy trước khi Ngài đạt thành quả vị Vô thượng Bồ đề. Tuy nhiên, Ngài không phải dễ dàng tiếp nhận tất cả những điều mà những vị thầy ấy đã dạy. Thay vì, Ngài dùng tư duy cá nhân của mình để tìm hiểu chân lý. Và khi Ngài đạt thành chính quả (Giác ngộ), Ngài cũng chưa từng có thái độ nóng giận hay đe dọa những ai không đồng ý với những lời giáo huấn của Ngài.

Bây giờ, chúng ta hãy xem xét đến những lập luận (Logic) hay tranh biện (Argument). Bất cứ khi nào chúng ta nghĩ rằng có những vấn đề nhất định nào đó có thể chấp nhận được đối với chúng ta, thì chúng ta nói đó là hợp lý (logical) đúng đắn. Thực sự thì nghệ thuật luận lý là một công cụ quan trọng cho sự tranh biện (Argument). Luận lý có thể được sử dụng bởi những nhà hùng biện lỗi lạc, người vận dụng trí thông minh kết hợp với sự lanh lợi, khéo léo. Người có tài hùng biện, nói lên sự thật công lý để đánh bại đối phương. Chẳng hạn như những luật sư tranh biện trong tòa án. Các tôn giáo khác nhau tranh biện để chứng tỏ rằng tôn giáo của họ cao đẹp hơn so với tôn giáo khác.

Lập luận của họ dựa vào năng khiếu và khả năng diễn đạt quan điểm của họ, nhưng thực chất những lời biện luận ấy không cần thiết phải quan tâm đến chân lý. Đây là bản chất của sự biện luận. Để đạt đến chân lý, đức Phật khuyên nhủ chúng ta không nên bị dao động bởi những lời lẽ biện luận hay luận lý mà nên sử dụng sự thẩm xét khách quan. Khi người ta bắt đầu việc biện luận, tất nhiên là cảm xúc của họ cũng sinh khởi theo và điều này dẫn đến sự tranh biện sân hận, đầy kích động. Sau đó, sự ích kỷ của con người thêm dầu vào lửa cho cuộc đấu khẩu này. Cuối cùng, cuộc tranh luận tạo ra kẻ thù vì rằng ai cũng muốn bảo vệ lập trường quan điểm của mình là đúng. Vì thế, không ai lại đi cổ xúy chân lý của một tôn giáo thông qua biện luận. Đây là một lời giáo huấn quan trọng khác của đức Phật.

6. Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó phù hợp với lập trường của mình.

Sau đó, đức Phật thêm lời khuyên nhủ đừng tiếp nhận bất kỳ một điều gì như là chân lý tuyệt đối do vì tầm ảnh hưởng của ai đó (upon one’s own influence). Điều này đề cập đến niềm tin cho rằng đức tin được nhìn nhận như là chân lý bằng sức tưởng tượng nông cạn. Mặc dù chúng ta vẫn còn nhiều nghi ngờ trong tâm mình nhưng chúng ta lại thừa nhận những điều nào đó như là chân lý sau một sự tìm hiểu giới hạn. Bởi vì tâm trí chúng ta bị đánh lừa bởi dục vọng và cảm xúc, nên thái độ tâm lý này tạo ra sự ảo tưởng si mê.

Và vì chúng ta vốn sẵn vô minh nội tại nơi mình. Mọi người đều đau khổ do vô minh và ảo tưởng. Những cấu nhiễm tâm lý này che mờ tâm trí rồi trở nên thành kiến và không thể biện biệt được giữa sự thật và ảo tưởng. Như một hệ quả, chúng ta tin tưởng bảo thủ rằng chỉ có niềm tin của chúng ta là đúng. Lời giáo huấn của đức Phật cũng đừng vội đi đến kết luận bằng cách dùng cảm xúc mà nên tham khảo nhiều thông tin và sự kiểm chứng trước khi tiến đến kết luận về sự việc. Điều này có nghĩa là chúng ta phải sẵn sàng lắng nghe những gì người khác đã nói. Có lẽ họ có thể làm sáng tỏ những nghi ngờ và giúp chúng ta nhận ra được ảo tưởng về những gì chúng ta tin như thế là đúng.

Như một ví dụ cụ thể cho việc này là trước đây người ta cho rằng mặt trời xoay quanh trái đất, vật thể mà họ đã từng tin là có hình dẹt, trông giống như một đồng tiền xu. Luận điểm đó được y cứ vào kiến thức nông cạn của họ nhưng họ sẵn sàng thiêu sống bất cứ ai dám trình bày quan điểm trái nghịch. Nhờ vào đấng Thế tôn giác ngộ, bậc thầy vĩ đại của nhân loại và chư thiên, Phật giáo không có những trang sử đen tối như thế trong lịch sử của Giáo hội tăng già Phật giáo, lịch sử mà ở đó không có sự kiện rằng con người không được phép phản đối những điều phi lý. Đây là lý do tại sao nhiều hệ phái Phật giáo cùng tồn tại trong hòa ái mà không có hành động lên án, kích bác lẫn nhau. Dựa vào sự hướng dẫn minh bạch của đức Phật, người phật tử tôn trọng quyền tin theo những quan điểm dị biệt của người khác.

7. Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều ấy phù hợp với định kiến của mình.

Lời giáo huấn tiếp theo của đức Phật là không nên tiếp nhận bất kỳ điều gì, chỉ vì điều đó nghe có vẻ là đúng. Khi bạn quan sát sự việc và nghe cách diễn giải của người khác, bạn chỉ nắm giữ tướng trạng biểu hiện bên ngoài của đối tượng mà không vận dụng kiến thức thấu đáo của mình. Đôi khi những ý niệm hay sự đồng điệu mà bạn gán cho đối tượng lại quá xa vời với sự thật nội tại của nó.

Hãy thử cố gắng nhìn sự thể theo một viễn cảnh xác thực. Phật giáo được biết như là nền giáo thuyết phân tích. Chỉ thông qua sự phân tích thì chúng ta mới có thể hiểu được những gì thực sự chính xác nên sự vật và bằng cách nào mà các nguyên tố và năng lượng hoạt động? Và làm thế nào chúng tồn tại? Tại sao chúng biến đổi và hoại diệt? Nếu bạn thực sự kiểm chứng được bản chất của những điều này thì bạn sẽ nhận ra rằng mọi hiện hữu là vô thường và rằng việc chấp thủ vào những đối tượng như thế có thể tạo thêm nỗi thất vọng. Lại nữa, khi được nhìn theo viễn cảnh chân thực thì bạn sẽ thấy rằng có ý nghĩa gì trong việc đấu tranh về quan điểm khi mà với sự phân tích sau cùng, tất cả chỉ là ảo giác. Người phật tử không bị quay cuồng trong việc tranh luận liên hệ đến vấn đề khi nào thì thế giới sẽ chấm dứt, bởi vì họ hiểu rằng rốt cuộc thì các pháp hữu vi sẽ biến hoại theo thời gian. Khi đó thế giới sẽ chấm dứt. Không có nghi ngờ gì về sự thật ấy cả.

Sự chấm dứt của thế giới, theo đức Phật chỉ là một sự kiện kịch tính về một điều gì đó xảy ra trong sự hiện hữu hàng ngày của chúng ta. Và thiên văn học hiện đại cho chúng ta biết rằng sự phân hủy của các hành tinh vẫn thường xuyên hỗn loạn trong vũ trụ.

Phật dạy: “Không truy tìm quá khứ, chẳng nghĩ đến tương lai, an trú trong hiện tại. Vì vậy được an lạc thanh thản”. Khi chúng ta hiểu được thực tế này thì sự hoại diệt của thế giới không có gì là quá khủng khiếp, hay đáng lo ngại.

8. Chớ vội tin điều gì, khi điều đó được căn cứ trên những dữ kiện hời hợt.

Vì thế đức Phật giáo huấn chúng đệ tử của Ngài không nên dựa vào kinh nghiệm tư biện (thiếu thực tế) của cá nhân nào đó để làm thành định kiến của mình. Sau khi nghe hay đọc kỹ những lý thuyết nào đó, người ta dễ dàng đi đến những kết luận và duy trì những tín ngưỡng này. Họ cố bảo thủ không muốn thay đổi quan điểm bởi vì chính tâm thức họ đã tạo lập nên hoặc là vì trước kia đã “cải đạo” theo một tín ngưỡng nào đó rồi. Họ được cảnh báo là sẽ bị thiêu đốt trong địa ngục nếu họ thay đổi đức tin của họ. Vì vô minh che lấp, nỗi sợ hãi ám ảnh, những người đáng thương này sống trong tâm trạng hạnh phúc tạm bợ, nghĩ rằng tội lỗi của họ sẽ được tha thứ một cách thần diệu.

Lời giáo huấn của đức Phật là đừng vội vàng tạo ra lời kết luận để quyết đoán những niềm tin như thế có đúng hay không? Người ta có thể khám phá ra những điều trong thế giới này, nhưng đối với họ, việc nhận ra được chân lý hay thực tại của các pháp hữu vi lại là điều hết sức khó khăn. Chúng ta không nên dựa vào những lời đồn đại mang tính tư biện để nắm bắt chân lý. Chúng ta có thể chấp nhận những điều nào đó như là cơ sở để tiến hành một sự thẩm xét mà sự thẩm xét đó sẽ làm thỏa mãn được tâm thức hiếu kỳ. Những quyết định mà chúng ta đưa ra thông qua suy biện có thể được ví như những quyết định của người mù sờ voi. Mỗi người có lời phán quyết riêng của mình liên hệ đến những gì mà họ nghĩ về con voi. Đối với mỗi người, những gì anh ta nói đến là đúng. Mặc dù nhiều người có thể nhìn thấy sự việc biết rằng những người mù điều nói sai, nhưng trong thâm tâm họ vẫn nghĩ mình là đúng. Cũng vậy, đừng giống như tục ngữ “Ếch ngồi đáy giếng” không nghĩ là có một thế giới bao la muôn màu nào khác ngoài những gì nó có thể thấy được.

Chúng ta bị mù quáng bởi do bị chi phối bởi Bốn lậu hoặc (Dục lậu, Hữu lậu, Kiến lậu và Vô minh lậu) như bốn dòng nước đen điu, bẩn thỉu chảy tràn, len lỏi khắp các cõi, nó không ngừng tươm rỉ những chất độc hại, dơ uế làm ô nhiễm tâm trí của chúng sinh. Đó là nguyên nhân khiến cho chúng ta không thể nhận diện được chân lý. Điều đó lý giải tại sao người khác có thể dẫn dắt chúng ta vào con đường sai lạc và thuyết phục chúng ta một cách dễ dàng. Chúng ta phải luôn chuyển hóa niềm tin mà chúng ta nhận lầm là chân lý vì chúng ta không nắm bắt được cái tối hậu từ niềm tin ấy. Người ta luôn thay đổi nhãn hiệu tôn giáo của họ đối với thời gian bởi vì họ rất dễ bị tác động bởi cảm xúc. Một khi chúng ta đã nhận thức được sự thật cứu kính rồi thì chúng ta chẳng bao giờ cần thay đổi, dưới bất kỳ hoàn cảnh nào nữa, bởi vì ở trong chân lý tối hậu thì không có gì để thay đổi nữa bởi nó vốn bản thể tuyệt đối.

9. Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều ấy được sức mạnh và quyền uy ủng hộ.

Chúng ta không nên thay đổi quan điểm của mình chỉ vì chúng ta quá khâm phục người khác bởi sự thể hiện tài năng bề ngoài của họ, là lời khuyên nhũ khác của đức Phật đối với những chàng thanh niên làng Kalama. Nhiều người có khả năng gây ấn tượng cho các bạn bằng lối ứng xử và khả năng biểu hiện bề ngoài của họ để thực hiện một ý đồ gì đó. Ví dụ, liệu các bạn có thể tin mù quáng vào cô gái trong chương trình quảng cáo trên truyền hình, người nói với bạn cũng có thể trở nên đẹp như cô ta, có hàm răng trắng đẹp như răng cô ta nếu các bạn sử dụng một loại kem đánh răng nào đó hay không? Dĩ nhiên là không rồi. Các bạn sẽ không chấp nhận những gì cô ta quảng cáo mà không có sự kiểm chứng cẩn thận giá trị hợp lý về những lời quảng cáo của cô gái.

Điều đó cũng giống như những người có khiếu ăn nói đến gõ cửa nhà các bạn và kể với các bạn những câu chuyện đầy tính mê hoặc về cái “chân lý” của họ. Họ có thể nói nhiều về vị đạo sư, nhiều bậc thầy tâm linh và nhiều vị thiền sư. Họ cũng sẽ thích dùng lối cường điệu để chứng tỏ quyền năng của các bậc thầy của họ nhằm thuyết phục các bạn. Nếu các bạn tiếp nhận bừa lời ba hoa của họ như là chân lý thì các bạn vẫn còn tiếp tục duy trì quan điểm đầy dao động và nông cạn bởi các bạn chưa xác lập được sự tin tưởng hoàn toàn. Các bạn có thể theo họ vì niềm tin vào một điều gì đó. Nhưng rồi một ngày, các bạn sẽ trở nên thất vọng vì các bạn chưa chấp nhận vấn đề bằng sự hiểu biết và kinh nghiệm của các bạn. Và vì vậy, khi các bạn gặp một bậc thầy nào khác gây nhiều ấn tượng hơn thì các bạn sẽ từ bỏ người thầy ban đầu.

Khi chúng ta nghiên cứu, kiểm chứng lời giáo huấn của đức Phật. Hãy tư duy phương cách giảng dạy của Ngài sau đây để xem giá trị hợp tình, hợp lý và hợp khoa học như thế nào. “Đừng nghe người khác với đức tin mù quáng. Tất nhiên là cần phải lắng nghe họ nhưng phải tỉnh giác và lắng nghe với tâm thức cởi mở. Các vị không nên phó thác học vấn và trí thông minh của mình cho những ai khác khi lắng nghe họ. Họ có thể cố tình khơi gợi cảm xúc của quý vị và thuyết phục tâm trí các vị tùy theo nhu cầu ham muốn thế tục của quý vị để làm thỏa mãn khát khao của quý vị. Nhưng mục đích của họ ở đây không nhất thiết là để khai mở chân lý”.

10. Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều ấy được các nhà truyền giáo hay đạo sư của mình tuyên thuyết.

Không nên chấp nhận bất cứ điều gì, chỉ xét thấy rằng điều ấy tuyên thuyết bởi “bậc đạo sư của chúng ta” là lời giáo huấn cuối cùng của đức Phật trong bối cảnh này. Các bạn có bao giờ nghe bất kỳ một bậc thầy tôn giáo nào khác đã từng thổ lộ những lời như thế không? Tất cả những bậc thầy tôn giáo khác đều tuyên bố rằng: “Ta là đấng quyền năng duy nhất. Hãy theo ta, tin thờ ta, cầu khẩn ta, nếu không ngươi không có được ân điển cứu rỗi”. Họ luôn tuyên bố rằng: “Ngươi không được thờ cúng ai, thánh thần hay bậc đạo sư ngoại giáo nào khác”. Nên để tâm suy tư một chút để hiểu rõ thái độ sau đây của đức Phật.

Ngài dạy: “Đừng nương tựa một cách mê muội vào đạo sư mình. Vị ấy có thể là nhà sáng lập một tôn giáo hay bậc thầy hướng dẫn tâm linh nổi tiếng, tuy thế người ta không nên vội vàng phát huy sự gắn bó của mình với vị ấy”.

Đây là cách đức Phật đã tạo ra được sự tín nhiệm chân thật như thế nào cho trí tuệ con người và giúp họ biết vận dụng ý chí tự do mà không phải là thùy thuộc vào người khác.

Đức Phật dạy: “Bất cứ ai đều có thể trở thành vị đạo sư của chính mình".

Đức Phật có thể truyền dạy cho chúng ta rằng Ngài là bậc giác ngộ duy nhất, và rằng chúng đệ tử của Ngài không nên sùng tín mê muội bất kỳ vị thần hay bậc thầy ngoại đạo nào. Tuy nhiên, Ngài không hứa hẹn với Phật giáo đồ của Ngài rằng họ có thể dễ dàng đi lên thiên đường hay đạt đến Niết bàn nếu họ mê mờ thờ cúng Ngài. Nếu chúng ta thực hành theo một tôn giáo đơn giản bằng cách nương tựa vào bậc đạo sư không thôi thì chúng ta sẽ không bao giờ giác ngộ được chân lý. Không nhận ra được sự thật của tôn giáo mà chúng ta đang thực hành theo thì chúng ta có thể trở thành nạn nhân của một tín lý mù quáng và ràng buộc tự do tư tưởng của chúng ta và rồi trở thành những kẻ nô lệ cho một bậc thầy cá biệt, đi kỳ thị chống đối những bậc thầy khác.

Chúng ta cần phải tự ý thức rằng không nên nương tựa vào người khác vì sự giải thoát của bản thân. Nhưng chúng ta cần phải tôn trọng bất cứ bậc thầy tôn giáo nào chân chính và đáng kính trọng. Có nhiều bậc thầy tôn giáo có khả năng dạy chúng ta những gì nên làm để đạt được giải thoát của mình nhưng không phải vị này lại có thể cứu độ được người khác. Nó không giống như việc cứu sống một mạng khi gặp cảnh lâm nguy. Đây là sự giải thoát hoàn toàn khỏi những cấu nhiễm tinh thần và khổ đau trần thế. Đó là lý do tại sao chúng ta phải tự lực thực hành để đạt đến giải thoát hay tự do mỹ mãn theo lời giáo huấn của các bậc thầy tôn giáo.

Đức Phật dạy: “Không ai có thể cứu vớt chúng ta bằng chính tự bản thân mình. Chư Phật chỉ là những bậc đạo sư dẫn đường”.

Bạn có thể nghĩ một nhà lãnh đạo tôn giáo nào đó đã nói lên điều này không? Đó là tư tưởng khai phóng mà chúng ta chỉ thấy có trong trong Phật giáo.

Đây là toàn bộ mười lời giáo huấn của đức Phật cho những chàng thanh niên làng Kalama đến bái kiến Ngài để tham vấn việc làm sao để tiếp nhận một tôn giáo và làm thế nào để xác định đâu là một tôn giáo chân chính.

Lời giáo huấn của Ngài là: “Không ích kỷ và không quá lệ thuộc vào người khác. Không làm bất cứ điều gì chỉ vì lợi ích cá nhân, nên vì sự lợi ích cho những người cần được quan tâm”.

Ngài nói với họ rằng quý vị có thể lãnh hội được ý nghĩa này tùy theo kinh nghiệm cá nhân của mình. Ngài cũng nói rằng giữa những lối thực hành và niềm tin khác nhau thì có vài điều nhất định nào đó là tốt cho người này nhưng lại không tốt đối với người khác. Và ngược lại, có những điều nhất định nào đó thì tốt với người khác nhưng lại không tốt đối với những người còn lại. Trước khi định làm bất cứ một việc gì, quý vị cần phải lưu tâm đến cả hai khía cạnh: thuận lợi và bất lợi xảy ra với quý vị. Vì vậy, đức Phật đã chỉ bày cho chúng ta một tư tưởng hoàn toàn khai phóng để chọn lựa một tôn giáo chân chính theo niềm tin vững chắc của chính mình.

Phật giáo là một tôn giáo mà dạy cho một người đàn ông hiểu rằng không phải là tôn giáo mà tôn giáo đó là cho con người sử dụng. Tôn giáo có thể được ví như một chiếc bè được sử dụng bởi con người qua sông. Khi họ đến bờ sông, ông có thể để lại và tiếp tục hành trình của mình. Người ta phải dùng tôn giáo để sửa chữa bản thân và trải nghiệm sự tự do, hòa bình và hạnh phúc. Phật giáo là một tôn giáo mà chúng ta có thể sử dụng để sống hòa bình và để cho những người khác cũng sống một cách hòa bình.

Khi thực hành tôn giáo này, chúng tôi được phép tôn trọng các tôn giáo khác. Nếu nó là khó khăn để tôn trọng thái độ và hành vi của các tôn giáo khác thì ít nhất chúng ta cần phải được khoan dung mà không bị xâm nhập hoặc tố cáo các tôn giáo khác. Rất ít tôn giáo khác dạy theo nó để áp dụng thái độ khoan dung này.

Đạo Phật là một tôn giáo dạy cho người ta hiểu được rằng con người không phải vì tôn giáo mà tôn giáo phải là công cụ để phục vụ vì sự lợi ích cho con người để tạo ra tính hữu dụng của nó. Tôn giáo có thể được ví như chiếc thuyền giúp người sang sông. Một khi qua đến bờ bên kia rồi thì người ta có thể vứt bỏ nó và tiếp tục cuộc hành trình. Người ta nên dùng tôn giáo để cải thiện cuộc đời và để thể nghiệm sự tự do, an lạc và hạnh phúc.

Phật giáo là một tôn giáo mà chúng ta có thể nương tựa để sống an lạc và giúp cho người khác cũng được sống an lạc. Trong khi thực hành theo tôn giáo này, chúng ta vẫn có quyền tôn trọng những người theo tôn giáo khác. Nếu như thực sự khó có thể tôn trọng hành vi và thái độ kỳ thị của họ thì ít nhất chúng ta cũng cần có sự khoan dung, không để mình bị lôi cuốn vào những xung đột sắc tộc, tôn giáo.

Hiếm có tôn giáo dạy cho tín đồ của họ tiếp nhận thái độ khoan dung, rộng lượng này.


Đại Lão Hòa thượng Tiến sĩ K. Sri Dhammananda

Chuyển ngữ: Vân Tuyền

Nguồn: Majelis Buddhayana Indonesia

Các tin tức khác

Back to top